
I.
Vào ngày rằm tháng Giêng năm Ất Hợi 1935, tức ngày Giáp Tí tháng Mậu Dần âm dương lịch hay ngày 17 tháng 2 dương lịch, một mật đàn kéo dài ba ngày đã diễn ra nơi cơ quan linh hiển Bát Quái Đồ Thiên thuộc tỉnh Hà Tiên của miền Nam Việt Nam. Nội
dung của Tam Nhật Đàn này chứa đựng những thông điệp vô cùng quan trọng
liên quan đến CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ đương thời và THIÊN ĐẠO KỲ
BA VÔ VI trong tương lai. Nội dung của mật đàn này đã không được phép công bố trong suốt một thời gian dài gần 3/4 thế kỷ theo Chỉ Thị của Thượng Đế.
Trong đàn cơ này, Cha Trời đã giáng đàn để "minh chơn lý" cho nhơn sanh sau này thấy rõ làm tin rằng THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI hay HUỲNH ĐẠO THIÊN KHAI KỲ BA VÔ VI là CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC CỦA HUYỀN KHÔNG
và chỉ thị cho cơ quan linh hiển Bát Quái Đồ Thiên của Đạo Cao Đài rằng
họ chỉ được phép phổ biến nội dung của Tam Nhật Đàn này khi đến đúng
thời điểm căn dặn.
Lúc đó, năm 1935, Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ chỉ mới thành hình chưa tròn 10 năm. Và thời điểm mà Thượng Đế đã căn dặn "cho phép phổ biến" nội dung mật đàn là khi mà "Trung Đông chiến họa, lưỡng dân điêu tàn" và "đời đạo đều hỗn loạn". Thời
điểm được tiên khải ứng vào vào năm 2001 trở về sau và hoàn cảnh được
tiên khải chính là từ sự kiện 9/11, khởi đầu của cuộc chiến chống khủng
bố toàn cầu, đưa đến tình trạng "lưỡng dân điêu tàn" của hai khối dân Sunni và Shia trên xứ sở Iraq vì "đời đạo hỗn loạn".
Một tiên tri vô cùng chính xác! Văn bản Tam Nhật Đàn đánh máy quay
roneno có đóng dấu xác nhận nội dung được ghi chép vẫn còn đang lưu trữ
tại Bát Quái Đồ Thiên.
Lật lại từng trang thiên thư chúng ta có thể lượt ra một số đoạn "cốt lõi" của mật đàn như sau:
Xin làm ơn ghi nhận những chữ trong ngoặc vuông [ ] là của người viết chèn vào để giúp làm rõ nghĩa câu văn. Còn những chữ nghiêng nẳm trong ngoặc kép " " là nguyên văn từ văn bản tham chiếu hay trích dẫn.
Lật lại từng trang thiên thư chúng ta có thể lượt ra một số đoạn "cốt lõi" của mật đàn như sau:
Xin làm ơn ghi nhận những chữ trong ngoặc vuông [ ] là của người viết chèn vào để giúp làm rõ nghĩa câu văn. Còn những chữ nghiêng nẳm trong ngoặc kép " " là nguyên văn từ văn bản tham chiếu hay trích dẫn.
"Ngày kia, tại xứ VIỆT NAM, Trời lập BÁT MÔN ĐỒ TRẬN
có 8 cửa: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Hào quang sáng
chói nửa lừng trời thì bá đạo hoàn cầu thấy hào quang, sang phá trận cho
tiêu tàn, giành làm bá chủ. Trận Bát Môn của Trời lập, chính là THIÊN MÔN TRẬN
người tu 1.000 năm vào trận khó ra. Thiên Môn Trận thâu hồi bá đạo vào
Bảng Phong Thần, đó là Phong Thần thăng Bảng Kỳ Ba đó các con! Như vậy
thì bá đạo hoàn cầu thấy hào quang kéo sang phá trận đều bị tiêu diệt, hồn lên Bảng Phong Thần hết cả. Vậy thì bá
đạo không phá nổi đồ trận của Thầy. Thầy mới thống nhất mà giáo truyền
Đại Đạo khắp cả thế giới năm châu vũ trụ, chẳng phải truyền [các mối]
đạo ngày hôm nay đó các con!" (Trích Dẫn 1, trang 5, Tam Nhật Đàn).
"Ngày
hôm nay [1935] Thầy giáo Đạo để biểu hiệu Cao Đài Phổ Độ là [để] độ các
con lập công giải thoát cho kịp kỳ tận thế này nên Thầy giáng Đạo chưa khai Giáo. Đến
cơ phổ độ hữu hình (thì hữu hoại) tiêu hoại hết rồi thì chỉ còn lại
những đạo tâm hữu căn hữu phước anh tài tuấn kiệt Thầy mới khai Giáo kỳ ba thì Phật Thánh Tiên Tam Giáo hạ trần hoát khai Huỳnh Đạo lập đời Thánh Đức Tân Dân, thì chừng đó Huỳnh Đạo thâu hết những kẻ đắc pháp huyền hư cùng hiền tài tuấn kiệt mà dẹp loạn can qua hoàn cầu mới được.." (Trích Dẫn 2, trang 5, Tam Nhật Đàn).
"Đến ngày Thiên khai Huỳnh Đạo, đó là khai giáo Đạo Huỳnh, thì Phật Thánh Tiên Tam Giáo hạ trần xuống thế mà thống nhất hòa bình, năm châu cùng vũ trụ, [rồi] Thầy mới đem biểu hiệu Cao Đài mà truyền lưu cõi thế,
các con không thông căn Đạo, không tìm hiểu được Thiên Cơ, tưởng lầm
Cao Đài [Tam Kỳ Phổ Độ] truyền đạo Năm Châu Thống Nhất hoàn cầu. Chưa
được! Vì Cao Đài [Tam Kỳ Phổ Độ] là cơ hữu hình đâu có Phật Thánh Tiên
mà thống nhất, đâu có Phật Thánh Tiên mà lập Bát Môn Đồ Trận. (Trích Dẫn 3, trang 5, Tam Nhật Đàn).
"... cho nên Cao Đài là cơ Phổ Độ không có lập đời. Còn lập đời là Huỳnh Đạo, là cơ Vô Vi, là Phật Thánh Tiên xuống thế lập đời mới được..." (Trích Dẫn 4, trang 6, Tam Nhật Đàn).
"Cao
Đài Phổ Độ là [dành cho] ngày hôm nay [1935]. [Tới] cuối Hạ Ngươn đời
tận thế [,] là [lúc] tận diệt loài người năm châu cùng là vũ trụ [sẽ
chỉ] còn lại kẻ hữu căn hữu đức đặng lập đời trở lại Thượng Ngươn, thì Luật Trời định [là] Giáo [Tôn] Đạo Huỳnh [sẽ] xuống thế độ kẻ hữu căn lập đời [chớ] không có Phổ Độ [nữa]. Hôm nay [Đấng] Tạo Hóa giảng Đạo tại xứ Việt Nam. Thầy vâng lịnh [Đấng] Tạo Hóa đầu thai xuống thế độ kẻ hữu căn lập Đời Thượng Ngươn trở lại, y lịnh của Tạo Hóa, cũng không có Phổ Độ. Phổ Độ là do Thầy quá thương các con là nòi giống của Thầy,
[sẽ] bị Luật Trời tận diệt hết chẳng còn, nên Thầy hoài tâm cùng [Đấng]
Tạo Hóa nhiều lần mà xin xá tội các con, cũng xin cho Thầy độ hết các
con về cùng Thầy (không nỡ bỏ). Vì vậy nên Thầy tá danh Cao Đài Phổ Độ, Thầy đem hai kỳ trước chung lại, kêu là Tam Kỳ Phổ Độ. Chính thiệt là kỳ này Lập Đời chớ không có Phổ Độ. Phổ độ đây là phần riêng của Thầy độ các con đó thôi. Nếu kỳ này Thầy không độ các con lập công giải thoát thì các con [sẽ] bị Luật Trời tiêu diệt hết chẳng còn." (Trích Dẫn 5, trang 16, Tam Nhật Đàn).
"... kẻ hữu đức là kẻ có công tu kiếp trước. Buổi cuối hạ ngươn, đời tận thế Hội Long Hoa thì kẻ hữu căn được tiếp luồng điển Thiên tu hành hết trước ngày Thầy giáo Đạo Cao Đài này sẽ thấy đắc quả Phật Thánh Tiên. Còn
người [đã] được đắc pháp huyền hư, lục thông phát huệ, tiếp điển với
Thầy, nghe Thầy chỉ dạy, những kẻ đó hiện giờ [buổi cuối hạ ngươn đang]
làm phận sự của Thầy [giao phó], hành
Đạo Kỳ Ba Vô Vi, đi thống nhất Triệt Giáo hoàn cầu mà thành lập Đạo
Thầy, thì những kẻ đó hiện giờ [buổi cuối hạ ngươn] tiếp điển với Thầy
mà thông hiểu được căn cội nguồn gốc Đạo Thầy từ Thượng Giới đến hữu
hình thế gian, không cần Thầy nói giống như Thầy nói cho các con biết đây." (Trích Dẫn 6, trang 17, Tam Nhật Đàn).
"Vì vậy khi Thầy ngự Bạch Ngọc Kinh chầu Thượng Đế
thấy Luật Trời xoay chuyển cận ngày tạo Thiên lập Địa, thay quả Địa
Cầu, thay bầu trái đất, nhân vật cỏ cây đều thay đổi cả, đó là Ngũ Hành
thâu loài người cùng vật chất đó các con, vì vậy Thầy gấp gấp mau mau giáng Đạo Kỳ Ba, ngày mùng Một tháng Giêng năm Bính Dần [1926], Thầy dùng huyền diệu cơ bút khắp nơi mà kêu réo các con mau quay đầu tỉnh ngộ mà theo Đạo Cao Đài [rồi nhờ] có Tổ Tiên ủng hộ mà giải thoát hay là xác thịt còn sống được [đặng] Thầy độ [tới kỳ] lập đời Tân Dân Thánh Đức." (Trích Dẫn 7, trang 17, Tam Nhật Đàn).
"Đó là hữu hình, rồi đây tiêu hoại hết, nhưng đó là kế hoạch của Thầy triệu những kẻ Căn Đời vào Đạo đó thôi. Còn thiệt của Thầy là Kỳ Ba Vô Vi Lập Đời, còn Kỳ Phổ Độ [sẽ bị] tiêu diệt hết rồi.
Còn lại những kẻ Đạo tâm hữu căn hữu đức sống đúng Luật của Thầy [thì]
Thầy mới độ dẫn qua Kỳ Ba Vô Vi, đặng lập Đời. Vì Luật Trời định vậy nên cơ Phổ Độ phải bị tiêu diệt theo Nhân Sanh, đặng chọn kẻ Đạo tâm, đặng lập Đời, không một kẻ nào thoát khỏi vòng hỗn loạn binh đao cùng dịch chướng đó các con!" (Trích Dẫn 8, trang 19, Tam Nhật Đàn).
"Kỳ Ba Vô Vi là Phật Thánh Tiên xuống thế lập đời nên Thầy chọn rặt những kẻ nguyên căn, còn kẻ hóa nhơn thì vớt hồn về quê cũ đó các con. Còn
người hành phận sự kỳ ba của Thầy là những người đắc pháp huyền hư, lục
thông pháp huệ, dùng thân [để] cảm, tưởng mà tiếp điển với Thầy hành
phận sự vô vi. Những người đó hiện giờ không có lãnh phận sự lập công trong cơ Phổ Độ. Vì cơ Phổ Độ của Thầy [là để] độ những kẻ thiếu căn thiếu đức còn lại . . . Còn
những kẻ đắc pháp huyền hư tiếp điển với Thầy là bực Phật Thánh Tiên
[của] Tam Giáo xuống trần đầu thay làm người đặng thay Thầy hành phận sự
ở thế gian. Đắc
pháp mà tiếp điển được với Thầy là ở trên Tam giáo xuống mới tiếp điển
được với Thầy, còn ngoài ra không ai được hết, đó là vị Minh Sư ở Trần
Thế." (Trích Dẫn 9, trang 19, Tam Nhật Đàn).
"Thầy minh ra cho các con biết rõ, những người phận sự của Thầy ở thế kêu là Minh Sư, nhưng còn một bậc Sư Ông [đang] còn ẩn. Những người phận sự của Thầy đều có Sắc Lệnh của Trời ban trên Tam giáo xuống trần gian thay mặt cho Thầy đặng diệt tà độ chánh, đặng lập Đời, chẳng phải là thường. Người phận sự của Thầy đủ quyền thưởng phạt thế gian, đủ tài năng thao lược, pháp bửu nhiệm mầu. Nếu người thay mặt cho Thầy không đủ tài năng thì làm sao thống nhất Triệt giáo hoàn cầu mà lập thành Đại Đạo đó các con? " (Trích Dẫn 10, trang 21, Tam Nhật Đàn).
"Hiện giờ, người nhận phận sự chưa tới, còn ẩn danh như Khương Tử, để Kỳ Ba các con thấy rõ nhiệm mầu huyền diệu của các Sư Ông. Các
con đừng lầm tưởng các bậc Minh Sư ở ngoài cơ Phổ Độ không có vô lập
công như các con, các con cho đó không phải là người Đạo Cao Đài là quá
đổi quá dốt. Thầy
cho biết: Đạo Cao Đài gồm hết những kẻ hữu căn hữu đức hùng anh tuấn
kiệt, cùng các bậc Minh Sư ở [trên] toàn quốc Đất Việt đều chung lo tạo
dựng Đạo Cao Đài." (Trích Dẫn 11, trang 21, Tam Nhật Đàn).
"Cơ lập công với Tạo Hóa, kỳ Hội Long Hoa tận thế có nhiều bậc Tam Giáo hạ trần đầu thai mượn xác làm người, lập công Kỳ Ba Vô Vi, dựng nước khai non, thống nhất Triệt Giáo, thành lập Đạo Thầy. Bậc thiện căn, hữu đức không ham mê vật chất quyền danh." (Trích Dẫn 12, trang 21, Tam Nhật Đàn).
"Phán Đoán Đại Đồng, là ngày Luật Trời thưởng phạt loài người, tận diệt khắp cả thế gian hoàn cầu cùng Vũ trụ thì không còn một chéo đất nào ở thế gian còn nguyên vẹn. Chừng đó Thầy
cho chư Thần độ xác những kẻ hữu căn hữu đức, độ xác những anh hùng
tuấn kiệt đạo tâm ẩn nơi Thánh Địa đem về non đảnh là nơi Huyền Linh
Thiên định trước giờ ở yên nơi đó, chờ ngày Thiên Khai Huỳnh Đạo Tam Giáo giáng trần thâu những kẻ đạo tâm hùng anh tuấn kiệt mà hữu dụng Kỳ Ba lập đời khai non dựng nước đó các con." (Trích Dẫn 13, trang 22, Tam Nhật Đàn).
"Đàn
hôm nay [1935] là Tam Nhật Đàn. Đàn của Thầy minh chơn lý là Minh Sư
thiệt của đạo, để cho các con sau này coi biết rõ sự thật từ cơ Phổ Độ Hữu Hình cho tới Kỳ Ba Vô Vi lập đời. Đó là Thầy cho biết rõ căn cội nguồn gốc Đạo Trời [Thiên Đạo]. Còn
cơ Phổ Độ của Thầy mượn giả làm thiệt nên Thầy không cho biết sự thiệt,
cho biết thì lậu cơ mưu độ các con sao được, chớ Thầy nào có muốn
giấu." (Trích Dẫn 14, trang 23, Tam Nhật Đàn).
"Thầy dặn các con hãy nhớ, đến ngày hỗn loạn là cơ của thầy bế tắc, là kỳ hữu hình đã mãn, sang qua kỳ vô vi là các con bít đường lối, không biết Đạo đi tới nữa là chi, chỉ những kẻ có điển quang quán tưởng tiếp với Thầy mới hiểu thông mọi việc ... Các con hãy nhớ kỷ lời Thầy. Thánh giáo [của] Thầy [hãy] cất giữ, đời hỗn loạn mới được phép cho ra, bất tuân mệnh lệnh đại tội đó nghe con." (Trích Dẫn 15, trang 26, Tam Nhật Đàn).
II.
Từ nội dung Tam Nhật Đàn, nhất là xuyên qua 15 đoạn trích dẫn trên, một bức tranh tổng thể rõ nét đến độ không thể hoài nghi, không thể diễn dịch sai lầm, không thể không tin nhất là sau khi đối chiếu lại với những diễn biến trong ĐỜI & ĐẠO suốt gần một thế kỷ qua. Tam Nhật Đàn có thể nói là một văn bản "lập ngôn làm bằng chứng" của Thượng Đế về toàn bộ CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC CỦA HUYỀN KHÔNG THIÊN THƯỢNG, từ khi bắt đầu "giáng Đạo" năm 1924 rồi hình thành CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ năm 1926 phổ độ nhơn sanh đất Việt, cho đến khi Thượng Đế và Phật Thánh Tiên của Tam Giáo đầu thai xuống trần "khai Cơ" THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI năm 2014 rồi "khai Giáo" năm 2016 với danh xưng GIÁO HỘI THIÊN TRƯỜNG để phổ truyền ĐẠI ĐẠO HUYỀN KHÔNG và vẫn lấy biểu hiệu "Cao Đài" của Đấng Huyền Khung Cao Thượng Đế biểu ý "Đài Cao tột Huyền Không" cũng là "Ngôi Chí Tôn Chí Thượng" tiến tới mục tiêu sau cùng của chương trình là LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC - THIẾT LẬP KỶ NGUYÊN DI LẠC giúp cho nhân loại trên quả địa cầu này bước vào thời Thượng Ngươn tiếp tục tiến hóa xa hơn nữa.
Dĩ nhiên phát biểu trên là nhận định riêng của người viết. Trong phần tiếp theo sau người viết sẽ mang vào khá nhiều dữ liệu lấy từ những nguồn khác nhau nằm rải rác trong những thiên thơ, sấm giảng, tiên tri của những tôn giáo khác nhau để giúp cho người đọc có cơ hội suy nghiệm, kiểm chứng, tổng hợp, và tự đưa ra kết luận.
Xin mạn phép được gợi ý với quý bạn rằng đọc thiên thơ (hiển thơ mật nghĩa) không giống như đọc bạch văn vì từ ngữ sử dụng và kỷ thuật mã hóa trong thiên thơ rất thú vị. Đơn cử một vài trường hợp làm thí dụ. Như chữ "thanh bạch" không thể diễn giải là trong sạch mà "thanh" là tiếng nói và "bạch" là tác bạch, là trình bày như vậy "thanh bạch" là lời thưa trình, giải trình bằng lời nói. Hoặc như chữ "đạt lai bổn căn" không thể diễn giải là "bổn căn của Đạt Lai Lạt Ma" mà "đạt" là thành tựu và "lai" là trở lại như vậy "đạt lai bổn căn" là đã hoàn lại bổn căn. Hoặc như chữ "Tây tạng" không thể diễn giải là đất nước Tây Tạng mà "Tây" là phương Tây và "tạng" là nơi chứa như vậy "Tây tạng" là nơi cư trú ở phương Tây. Hoặc chữ "thanh bình" không phải là thanh bình mà "thanh" là Thanh Sơn (Trạng Trình) và "bình" là bình giải. Hoặc "niên Dậu tuế" phải được diễn giải là Dậu niên và Dậu tuế, tức tháng 8 năm Dậu, chữ Dậu xài cho cả hai. Và, vân vân. Thường là một người không có cảm ứng tâm linh bén nhạy thì khó có thể hiểu được mật nghĩa nếu chỉ cậy vào học thức để diễn giải.
1. CAO ĐÀI ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ khai mở năm 1926
chỉ là bước khởi đầu trong CHƯƠNG TRÌNH CỦA THIÊN THƯỢNG nhằm phổ độ
nhơn sanh Việt kém căn mà hữu phước, trước khi bước vào thời kỳ HUỲNH
ĐẠO THIÊN KHAI KỲ BA VÔ VI nói ngắn gọn là cơ THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI.
2. THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI sẽ đến vào thời điểm mà thế giới chứng kiến:"Trung Đông chiến họa lưỡng dân điêu tàn" và "Ngòi lửa dậy bốn bề nao nức, năm châu tràn tuyệt dứt nhơn sanh". Cũng vào thời điểm đạo đời "đến ngày hỗn loạn" đó"các
con bít đường lối không biết Đạo đi đến đâu nữa" ; "bá đạo ra tranh
hùng, Triệt Giáo dùng tả đạo bàng môn mượn danh Tiên Phật mà độ giành
người, cướp giật nhân sanh, làm nhiều điều tà thuật chóa mắt" ; và đó là ngày mà "cơ Phổ Độ của Thầy đã mãn".
3. THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI không phải là một TÔN GIÁO. Nói cho chính xác KỲ BA VÔ VI là một "cơ kỳ" trong sự vận hành chuyển dịch của THIÊN ĐẠO, là ứng danh cho một giai đoạn diễn biến, qua đó công việc của các đấng Phật Thánh Tiên nhận lệnh Tam Giáo đầu thai xuống thế gian trong xác thân con người dưới trần để thực hiện CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC CỦA HUYỀN KHÔNG THIÊN THƯỢNG sẽ phải được thực hiện. Các "Phật Thánh Tiên tại trần" này sẽ không làm "công tác hoằng hóa hữu vi", như là của các tiền bối đã làm để "lập công bồi đức" trong cơ Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mà chỉ "thực hiện sứ lệnh vô vi" trong cơ kỳ của THIÊN ĐẠO KỲ BA VÔ VI.
4. Những "Thiên Nhân" này là những "Minh Sư " tự biết rõ "căn phận vô vi" của mình, lặng lẽ "tiếp điển" tu thân, sống giữa chợ đời ô trược, hành động như người tầm thường, cho đến khi đúng
thời điểm "nhận sứ lệnh hành động" thì Thượng Thiên mới "khai mở bộ
đầu" để họ "tự ráp nối" với "chơn linh của mình", "đắc pháp huyền hư,
lục thông phát huệ" mà trở thành siêu phàm, hiểu rõ thiên
cơ, tận tường chơn lý, "biết đường hành sự" khế hợp với trên Thiên.
Điều này cũng được Thầy Thượng Đế xác lập thêm một lần nữa trong đàn cơ
của Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967:
"Gần đến lúc mật truyền biện pháp
Cho nhơn hiền tự ráp chơn linh
Những con đúng đắn điển hình
Qui thành yếu lý siêu hình giáng ngay"
(Ngọc Kinh 3, trang 42, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967)
5. Trong số những "Minh Sư " tại thế có các "Sư Ông" căn cơ rất cao trọng. Đàn cơ ngày 23 tháng 3 năm Kỷ Sửu 1949 của bộ phận Hiệp Thiên Đài tại Hà Tiên, ghi trong tập Đại Đạo Luận, cho biết là những Minh Sư và các Sư Ông vẫn chưa xuống thế, chỉ là cận ngày thôi.
"Đại Hội Long Hoa đã cận rồi
Thánh Thần Tiên Phật sắp lìa ngôi
Tề an bá tánh qui kim cổ
Thiên mạng phụng hành chớ thả trôi."
(Đại Đạo Luận, trang 11, Hiệp Thiên Đài, 1949)
Nhưng đến năm 1967, căn cứ theo lời Thầy Trời tiết lộ trong đàn cơ của Thiên Khai Huỳnh Đạo thì các Minh Sư và các Sư Ông này đã có mặt dưới trần.
Nhưng đến năm 1967, căn cứ theo lời Thầy Trời tiết lộ trong đàn cơ của Thiên Khai Huỳnh Đạo thì các Minh Sư và các Sư Ông này đã có mặt dưới trần.
"Phật Thánh Thần Tiên đã xuống rồi
Chỉ chờ giờ phút đúng đi đôi
Giang sơn đất Việt luôn tài đấp
Đất nước nhà Nam sẵn đức bồi."
(Ngọc Kinh 3, trang 3, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967)
Như vậy, dựa vào hai mốc thời gian trên thì có thể đoán ra là những Minh Sư và các Sư Ông đã hạ sinh trong khoảng thời gian 1949-1967. Tính đến hôm nay, năm 2017, thì các vị này đang ở độ tuổi 50-67.
6. Hai chữ "Tam Kỳ" không nhất thiết đồng nghĩa với 4 chữ "Tam Kỳ Phổ Độ". Bốn chữ Tam Kỳ Phổ Độ là để chỉ Thượng Ngươn Nhất Kỳ Phổ Độ đã qua + Trung Ngươn Nhị Kỳ Phổ Độ cũng đã qua + Hạ Ngươn hiện tại. "Thầy tá danh Cao Đài Phổ Độ" ... "Thầy đem hai kỳ trước chung lại, kêu là Tam Kỳ Phổ Độ." Như vậy rõ ràng Tam Kỳ Phổ Độ mà Thầy nói là "3 kỳ phổ độ" chứ không phải Ngươn ba phổ độ. Còn hai chữ "tam kỳ" thì có thể là ám chỉ "ba lần xuống thế" trên đất nước VN của Ngọc Đế mà cũng có thể là ám chỉ "lần ba xuống thế", tùy theo mật ý ẩn trong thiên thơ. Riêng các chữ "kỳ ba" hoặc "kỳ tam" hoặc "trào tam" hoặc "trào ba" hoặc "lần ba" là để chỉ Ngọc Đế hóa thân "xuống thế lần thứ ba" trên đất nước Việt Nam.
6. Hai chữ "Tam Kỳ" không nhất thiết đồng nghĩa với 4 chữ "Tam Kỳ Phổ Độ". Bốn chữ Tam Kỳ Phổ Độ là để chỉ Thượng Ngươn Nhất Kỳ Phổ Độ đã qua + Trung Ngươn Nhị Kỳ Phổ Độ cũng đã qua + Hạ Ngươn hiện tại. "Thầy tá danh Cao Đài Phổ Độ" ... "Thầy đem hai kỳ trước chung lại, kêu là Tam Kỳ Phổ Độ." Như vậy rõ ràng Tam Kỳ Phổ Độ mà Thầy nói là "3 kỳ phổ độ" chứ không phải Ngươn ba phổ độ. Còn hai chữ "tam kỳ" thì có thể là ám chỉ "ba lần xuống thế" trên đất nước VN của Ngọc Đế mà cũng có thể là ám chỉ "lần ba xuống thế", tùy theo mật ý ẩn trong thiên thơ. Riêng các chữ "kỳ ba" hoặc "kỳ tam" hoặc "trào tam" hoặc "trào ba" hoặc "lần ba" là để chỉ Ngọc Đế hóa thân "xuống thế lần thứ ba" trên đất nước Việt Nam.
Thượng Đế đã nhiều lần "tiên khải" sự "trở lại lần thứ ba của Thượng Đế trên đất nước Việt Nam". Văn bản của đàn cơ Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967 ghi:
Và,"Ngọc ẩn Kỳ Sơn, xuất tại Nam Hoàng gia xuống thế độ con phàm Thượng khai cơ Đạo văn thiên địnhĐế xuất Nam Bang duyệt phẩm hàm Giáo hóa con thơ hành chánh pháp Đạo mầu huấn luyện sắc Già LamNam kỳ Đế Chúa còn im ẩn Phương hướng định rồi dạ phải cam." (Ngọc Kinh 3, trang 39, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967)
Trong cuốn Thượng Đế Giảng Chân Lý, xb tháng 10 năm 2006, cũng có nhiều đoạn nói về sự trở lại của Ngọc Đế:
“Rồi đây, sẽ có vị Thánh Chúa tái lâm, có Đức Bạch Ngọc giáng trần, và một số vị khác được tiếp nguồn ân điển của Cha, để lo cơ chuyển tiếp dọn đường cho kỷ nguyên Thánh Đức. (Vấn đáp số 4)… “Giai đoạn tới đây, khi Cha thật sự ra mặt dưới cõi trần:
đây sẽ là giai đoạn chuyển tiếp để báo tin, dọn đường và chuẩn bị kỷ
nguyên Thánh Đức. Đấy là lúc mà các con phải lo chạy nước rút, để kịp
thời ứng thi và được tuyển chọn vào Cơ Thánh Đức.” (Vấn đáp 11) … “Cho nên, khi Cha xuống cõi trần qua Đức Kim Thân,
các con rồi sẽ thấy Cha thể hiện mọi bản tính của Thượng Đế ở trạng
thái thanh trược một lúc! Và Đức Kim Thân sẽ trần mà siêu cùng một lượt
đó con!” ( Vấn Đáp 37) … “Cho nên, sắp tới đây, Cha sẽ bước ra để lo Cơ Quy Nhứt, cơ này là đại cuộc của đất trời mà cũng là đại cuộc của linh hồn các con.” (Vấn Đáp 52) . . . “Sau này, khi Cha thực sự xuất hiện làm việc, Cha sẽ chuyển những cơ hội đặc biệt để nhiều vị tiến hóa cao ở các nơi đến học hỏi với Đức Kim Thân.” (Vấn Đáp 61) . . . “Thượng Đế lâm trần lần này hết sức đặc biệt,
và trần gian đang có cơ hội học hỏi Thượng Đế, đang tìm dò Thượng Đế,
đang nghe ngóng về tin Thượng Đế, dù Thượng Đế đang Cơ Quy Ẩn.” (Huấn Từ 1982). … “Lần này Cha giáng thế với chánh vị chưa hề có, cho nên lần này Ngươn Cơ sẽ chuyển một cách đặc biệt dị thường mà có lẽ khi Cha bước ra các con sẽ thấy.” (Huấn Từ 1982).
Trong cuốn Đường Về Đạo Quốc, Phật Sự Tiên Rồng, của Thiên Ánh Đạo Vàng, do Đức Vô Danh Thị xuống điển năm 2002 cũng nói tới sự trở lại của Thượng Đế dưới thế vào buổi cuối Hạ Ngươn, trong cuộc tẩy trần phán xét:
“Sắp khi tới cuộc tẩy trầnTrong cuốn Đường Về Đạo Quốc, Phật Sự Tiên Rồng, của Thiên Ánh Đạo Vàng, do Đức Vô Danh Thị xuống điển năm 2002 cũng nói tới sự trở lại của Thượng Đế dưới thế vào buổi cuối Hạ Ngươn, trong cuộc tẩy trần phán xét:
Phật Trời Thiên Lệnh phong thần bá gia
Có tu mới định chánh tà
Có ông Thiên Nhãn lập Tòa định phân.”
[Ông Thiên Nhãn = Thượng Đế]
(Phật Sử Tiên Rồng, trang 184, dòng 621-624, điển thi của Đức Vô Danh Thị, ngày 4 tháng 4 năm Nhâm Ngọ 2002, trong cuốn Đường Về Đạo Quốc ấn tống năm 2012)
Như mọi người đều biết, lần thứ nhất Thượng Đế hóa thân trên đất nước Việt Nam là Giáo Chủ Ngô Văn Chiêu (1878-1932), tức Đức Ngôi Hai trào một, khai truyền Cao Đài Bí Pháp.
"NGÔI-HAI GIÁO-CHỦ Đạo Nam-Phương,Nương bút mực đề những luống thương,NGÔ đồng lá rụng còn đơm trái,MINH nghĩa dựng đời mối phong cương,CHIÊU chiêu bóng nguyệt tà canh cánh,Xét nét ngân vàng phủ giá gương,Mênh mang lý Đạo đời chưa rõ,Cần-Thơ chánh thị Tổ-Đình chương."(Thiên Lý Bửu Tòa, đàn giờ Hợi ngày 29 tháng 9 năm 1977)
Lần thứ hai Thượng Đế hóa thân trên đất nước Việt Nam là Giáo Chủ Võ Văn Phẩm (1888-1940) tức Đức Nhị Thiên (Ngôi Hai trào hai), khai truyền Cao Đài Tân Pháp.
"Nhứt điểm thiện tứ Nhứt điểm ban
Chiết tự,
Nhị Nhân diên hống luyện quy hoàn
Hiếu trung ngưỡng cổ Văn vi thủ
Trụ xuất Nhân gian đạo đức toàn"
Hiếu trung ngưỡng cổ Văn vi thủ
Trụ xuất Nhân gian đạo đức toàn"
Chiết tự,
" Chữ Nhứt mà thêm chữ Nhứt là chữ NHỊ
Chữ Nhị mà thêm chữ Nhân là chữ THIÊN
Chữ Hiếu mà thêm chữ Văn là chữ GIÁO
Chữ Trụ mà bớt chữ Nhân còn chữ CHỦ"
Chữ Nhị mà thêm chữ Nhân là chữ THIÊN
Chữ Hiếu mà thêm chữ Văn là chữ GIÁO
Chữ Trụ mà bớt chữ Nhân còn chữ CHỦ"
Và,
"VÕ thọ chơn truyền lúc Hạ NgươnGIÁO khai Từ Phụ rộng ban ơn
CHỦ tâm hiệp dược trường sinh đắc
GIÁNG hỏa thối phù tánh mạng hườn"(Bạch Quang Đàn, 25 tháng 1 năm Bính Tuất, 26/2/1946)
Nếu cho rằng "kỳ ba" là "ngươn ba" và "xuống trần cứu thế kỳ ba" là "xuống trần cứu thế ngươn ba" đồng thời cho rằng câu này ứng vào sự có mặt của Ngôi Hai Ngô Giáo Chủ thì sẽ không đúng vì Ngài "đã xuống" và "đã qui hồi cựu vị" năm 1932. Hoặc ứng vào sự có mặt của Nhị Thiên Võ Giáo Chủ thì cũng không đúng vì Ngài "cũng đã xuống" và "cũng đã qui hồi cựu vị" năm 1940. Còn tinh thần của câu"Đã tuyên bố một lời: Thượng Đế quyết xuống trần cứu thế kỳ ba" là một tuyên ngôn, một xác quyết, một huyền khải cho một sự kiện chưa tới nhưng chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai mà Cha Trời long trọng khẳng định vào thời điểm năm 1967. Hơn nữa những chữ như "ẩn kỳ sơn" hay "còn im ẩn" là để chỉ một nhân vật đang có mặt và chưa tới lúc xuất hiện, còn “Ngôi Hai kỳ một” và “Nhị Thiên kỳ hai” thì đã xuất hiện và đã ra đi. Hơn nữa, căn cứ theo thiên thơ, tính tới năm 1967 thì cái "khai Giáo" mà Thầy Thượng Đế đã vạch rõ vào năm 1935 trong Tam Nhật Đàn là vẫn "chưa khai". Như vậy với câu"Đã tuyên bố một lời: Thượng Đế quyết xuống trần cứu thế kỳ ba", là một huyền khải về việc xuống thế lần thứ ba trên đất nước Việt Nam của Thượng Đế, thì theo đó sự xuất hiện của một Ngôi Hai "mới" trên đất nước Việt Nam vào giai đoạn chuyển tiếp qua Thượng Ngươn Thánh Đức là điều hoàn toàn hợp lý. Ngài "xuống thế độ con phàm" và trong xác thân bằng xương bằng thịt được tôn danh là "Ngôi Hai kỳ ba" hoặc "Nhị Thiên trào tam" hoặc "Hoàng Nhị Thiên". Vị "Nam Kỳ Đế Chúa" này sẽ đảm trách vai trò "khai cơ Đạo", "giáo hóa con thơ hành chánh pháp", "huấn luyện sắc già lam", "duyệt phẩm hàm". Chữ "Đế Chúa" ở đây là chỉ vào Thượng Đế chứ không phải nói một vị vua hay một ông chúa nào cả.
CHỦ tâm hiệp dược trường sinh đắc
GIÁNG hỏa thối phù tánh mạng hườn"(Bạch Quang Đàn, 25 tháng 1 năm Bính Tuất, 26/2/1946)
Nếu cho rằng "kỳ ba" là "ngươn ba" và "xuống trần cứu thế kỳ ba" là "xuống trần cứu thế ngươn ba" đồng thời cho rằng câu này ứng vào sự có mặt của Ngôi Hai Ngô Giáo Chủ thì sẽ không đúng vì Ngài "đã xuống" và "đã qui hồi cựu vị" năm 1932. Hoặc ứng vào sự có mặt của Nhị Thiên Võ Giáo Chủ thì cũng không đúng vì Ngài "cũng đã xuống" và "cũng đã qui hồi cựu vị" năm 1940. Còn tinh thần của câu"Đã tuyên bố một lời: Thượng Đế quyết xuống trần cứu thế kỳ ba" là một tuyên ngôn, một xác quyết, một huyền khải cho một sự kiện chưa tới nhưng chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai mà Cha Trời long trọng khẳng định vào thời điểm năm 1967. Hơn nữa những chữ như "ẩn kỳ sơn" hay "còn im ẩn" là để chỉ một nhân vật đang có mặt và chưa tới lúc xuất hiện, còn “Ngôi Hai kỳ một” và “Nhị Thiên kỳ hai” thì đã xuất hiện và đã ra đi. Hơn nữa, căn cứ theo thiên thơ, tính tới năm 1967 thì cái "khai Giáo" mà Thầy Thượng Đế đã vạch rõ vào năm 1935 trong Tam Nhật Đàn là vẫn "chưa khai". Như vậy với câu"Đã tuyên bố một lời: Thượng Đế quyết xuống trần cứu thế kỳ ba", là một huyền khải về việc xuống thế lần thứ ba trên đất nước Việt Nam của Thượng Đế, thì theo đó sự xuất hiện của một Ngôi Hai "mới" trên đất nước Việt Nam vào giai đoạn chuyển tiếp qua Thượng Ngươn Thánh Đức là điều hoàn toàn hợp lý. Ngài "xuống thế độ con phàm" và trong xác thân bằng xương bằng thịt được tôn danh là "Ngôi Hai kỳ ba" hoặc "Nhị Thiên trào tam" hoặc "Hoàng Nhị Thiên". Vị "Nam Kỳ Đế Chúa" này sẽ đảm trách vai trò "khai cơ Đạo", "giáo hóa con thơ hành chánh pháp", "huấn luyện sắc già lam", "duyệt phẩm hàm". Chữ "Đế Chúa" ở đây là chỉ vào Thượng Đế chứ không phải nói một vị vua hay một ông chúa nào cả.
Như vậy, vị"Sư Ông Cao Đại Nhất" trong các Sư Ông chính là Ngôi Hai kỳ ba. Và, Đức Ngài đang có mặt tại thế trần; như lời "Ngôi Hai trào một" Ngô Minh Chiêu đã tiết lộ trong đàn cơ của Tân Chiếu Minh (Âu Châu) dạy đạo cho đạo huynh Quyền Pháp năm Kỷ Mão 1999:"Thầy lâm phàm rồi " để "loan truyền đạo chánh pháp chơn" ... "mở cơ mầu... lập đời thánh đức dân trời" . Với Cao Đài, chữ "Thầy" là danh xưng của Thượng Đế hoặc của Ngôi Hai.
"Hạ Nguơn hầu mãn Thầy lâm phàm rồi
Thầy lâm phàm cứu Đời ngày cuối
Vớt Nguyên Căn trong buổi Hạ Nguơn
Loan truyền Đạo chánh Pháp chơn
...
Thầy lâm phàm cứu Đời ngày cuối
Vớt Nguyên Căn trong buổi Hạ Nguơn
Loan truyền Đạo chánh Pháp chơn
...
Ngày mạt hậu Ngôi Hai tá thế
Mở cơ mầu, là để lập đời,
Lập Đời Thánh Đức Dân Trời,
Độ Hồn Chủng Loại Người Người thành Tiên."
Mở cơ mầu, là để lập đời,
Lập Đời Thánh Đức Dân Trời,
Độ Hồn Chủng Loại Người Người thành Tiên."
(Đàn giờ Sửu, ngày 15 tháng 10 năm Kỷ Mão 1999, đàn dạy đạo h/h Quyền Pháp)
Trong
cuốn Kinh Bình Minh Đại Đạo Quyển 3 của Giáo Hội Cao Đài Thống Nhứt,
đàn cơ giờ Ngọ ngày 15 tháng 5 năm Canh Tuất (18-6-1970), đồng tử Kim
Quang tiếp điển, cũng cho biết sự trở lại lần thứ ba của Thượng Đế trên đất nước Việt Nam: "Ngọc
Hoàng Thượng Đế, Kim Viết Cao Đài, Giáo Đạo Nam Phương, Hạ Thế Kỳ Tam"
... "Bạch Ngọc ly [lìa] cung tá thế trần" ..."tam kỳ khai Thánh Thể" để "chuyển thế tình ... xây thánh đức ... dựng toàn linh ... hội chúng sanh". Hai chữ "Thánh
Thể" vừa ám chỉ kim thân của Thượng Đế dưới thế (tôn danh là Ngôi Hai
hay Nhị Thiên) mà cũng vừa ám chỉ "Hội Thánh" do Đức Ngài thiết lập. Và, thêm một lần nữa chính thánh giáo Cao Đài xác nhận là vào thời điểm tả kinh Bình Minh Đại Đạo năm 1970 thì Thượng Đế đã xuống trần rồi: "Ngọc sắc Hoàng cung đã xuất hình."
“Ngọc sắc Hoàng cung đã xuất hình
Thượng triều Đế ngự tả Bình-Minh
Kim môn Viết luận quyền thiên hạ
Cao khải Đài danh chuyển thế tình
Giáo huấn Đạo mầu xây Thánh-Đức,
Nam bang Phương hướng dựng toàn linh
Hạ nguơn Thế hệ dân vi thiện
Kỳ mạt Tam Tòa hội chúng sinh.”
“Ngọc sắc Hoàng cung đã xuất hình
Thượng triều Đế ngự tả Bình-Minh
Kim môn Viết luận quyền thiên hạ
Cao khải Đài danh chuyển thế tình
Giáo huấn Đạo mầu xây Thánh-Đức,
Nam bang Phương hướng dựng toàn linh
Hạ nguơn Thế hệ dân vi thiện
Kỳ mạt Tam Tòa hội chúng sinh.”
...
Bạch-Ngọc ly cung tá thế trần
Thượng đẳng tam kỳ khai Thánh-Thể
Trung thừa hạ phẩm hóa hoằng ân."
(Kinh Bình Minh Đại Đạo Quyển 3, Cao Đài Thống Nhất, 1970)
Cũng trong cuốn Ngọc Kinh 3 của Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967, Huyền Thiên Thượng Đế còn xác định rõ "Sư Ông Cao Đại Nhất" hay "Ngôi Hai kỳ ba" đó là do chính Đức Ngài Huyền Thiên "chiết [một] phần ba" chuyển thể xuống trần. Ngài cùng với "36 luân châu", là 36 vị Thánh Đạo Sư tương lai, giáng thế để "khai giáo" vì như đã nói cho tới nay Thầy Thượng Đế chỉ "giáng Đạo" chứ chưa "khai giáo". Không những vậy, Đức Ngài còn tiết lộ rằng vị Di Lạc Phật Vương thực ra là chính Đức Ngài Huyền Thiên hiện thân: "Chiết phần ba xuống thế, Ngọc Hoàng hiện thân Di Lạc trần gian, Phật Vương là hiệu Minh Hoàng là danh".
“Vâng, Thượng Đế Huyền Thiên mang hiệu
Thọ sắc Trời hiệu triệu linh căn
Quyển ba Kinh Ngọc lập văn
Khi đời đại chiến chớp giăng hoàn cầu
Tam thập lục luân châu giáng thế
Chiết phần ba chuyển thể, Ngọc Hoàng
Hiện thân Di Lạc trần gian
Phật Vương là hiệu Minh Hoàng là danh.
Thầy lãnh lệnh xuống miền dương thế
Chờ đến ngày khánh tể triều ban
Đầu Thầy đội nặng Thiên Hoàng
Vai mang dương thế vai quàng kinh luân."
(Di Lạc Chủ Ngươn, Ngọc Kinh, trang 34, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967)
Trong Kinh Bình Minh Đại Đạo Quyển 3 của Giáo Hội Cao Đài Thống Nhất, tả kinh vào ngày 11 tháng 2 Tân Hợi (6-3-1971), do đồng tử Huỳnh Hoa tiếp điển, Đức Tây An Bồ Tát cũng xác nhận Bắc Đẩu Huyền Thiên tức Huyền Thiên Thượng Đế đã hóa thân xuống thế tại Nam Việt: "Bắc ... đẩu tinh đà ứng lộ" ... "xẹt vào Nam" ... "chiếu tường vân ngũ sắc khắp Nam Bang".
“Kìa hướng Bắc chòm sao đẩu tinh đà ứng lộTrong Kinh Bình Minh Đại Đạo Quyển 3 của Giáo Hội Cao Đài Thống Nhất, tả kinh vào ngày 11 tháng 2 Tân Hợi (6-3-1971), do đồng tử Huỳnh Hoa tiếp điển, Đức Tây An Bồ Tát cũng xác nhận Bắc Đẩu Huyền Thiên tức Huyền Thiên Thượng Đế đã hóa thân xuống thế tại Nam Việt: "Bắc ... đẩu tinh đà ứng lộ" ... "xẹt vào Nam" ... "chiếu tường vân ngũ sắc khắp Nam Bang".
Xẹt vào Nam khắp chỗ ánh hào quang
Chiếu tường-vân ngũ-sắc khắp Nam-bang”
(Kinh Bình Minh Đại Đạo, Quyển 3, Cao Đài Thống Nhứt, 1971)
Và trong sấm thơ của Thiên Ánh Đạo Vàng cũng nói tới sứ mạng dưới thế của Đức Huyền Thiên Thượng Đế:
“Cao Đài Đại Đạo uy nghi thượng
Hòa Hảo Phật Giáo hướng Thiên Sơn
Thiên Linh Đức Chúa Huyền Chơn
[Đức Chúa Huyền Chơn = Huyền Thiên Chơn Võ = Huyền Thiên Thượng Đế]
Đạo đồng hợp đạo thắng cơn ma quyền”
(Hòa Đồng Đạo Linh, điển thi 2001-2008, ấn tống 2012, tr. 80)
Mẹ Diêu Trì cũng khải lộ cho biết sự hiện diện của Huyền Thiên Thượng Đế dưới thế cũng như sứ mạng của Đức Ngài trong lần thứ ba trở lại trên đất nước Việt Nam:
“Diêu ý Thiên cơ Ngọc giáng sanh
Trì tâm Đạo pháp Kinh lai thành
Kim hồi Vô niệm Quyển tròn nghĩa
Mẫu đáo Vi truyền Ba vẹn danh
Vô thủy Minh minh Thiên giáng để
Cực sơn Thiên định Khai còn dành
Từ hòa Đại thể Đại đồng chiếu
Tôn hiệp Nghĩa chung Đạo bạch thanh.
(Ngọc Kinh 3, trang 43, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967)
Khoán chữ đầu trong mỗi câu của bài thơ thành: "Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn". Nó cho biết bài thơ này là từ kim ngôn của Mẹ Trời. Khoán chữ thứ ba trong mỗi câu của bài thơ thành: "Thiên Đạo Vô Vi, Minh Thiên Đại Nghĩa".
Nó tiết lộ cho biết cơ "Thiên Đạo Vô Vi" là "đại nghĩa của Ngài Minh
Thiên (Huyền Thiên)". Và khoán chữ thứ năm trong mỗi câu của bài thơ
thành: "Ngọc Kinh Quyển Ba Thiên Khai Đại Đạo". Nó nói rõ thêm "màn thứ ba/ kỳ thứ ba của Bạch Ngọc Kinh" sẽ là "Thiên Khai Đại Đạo" (bốn chữ "Ngọc Kinh Quyển Ba" không phải chỉ đơn thuần là quyển sách có tên là Ngọc Kinh 3 mà còn có nghĩa là "màn ba của Bạch Ngọc Kinh". Chữ "quyển" 卷 còn đọc âm khác là "quyến" với nghĩa "cuốn rèm").
Ngoài ra, nếu lấy bốn chữ đầu trong mỗi câu của bài thơ trên để ráp lại thì sẽ được một bài thơ khác với nội dung: "Diêu
ý thiên cơ, trì tâm đạo pháp, kim hồi vô niệm, Mẫu đáo vi truyền, vô
thủy minh minh, cực sơn thiên định, từ hòa đại thể, tôn hiệp nghĩa
chung". Và nếu lấy bốn chữ cuối trong mỗi câu của bài thơ trên để ráp lại thì sẽ được một bài thơ khác nữa với nội dung:"cơ
Ngọc giáng sinh, pháp kinh lai thành, niệm quyển tròn nghĩa, truyền ba
vẹn danh, minh thiên giáng để, định khai còn dành, thể đại đồng chiếu,
chung đạo bạch thanh."
Cả
3 bài thơ vừa nêu trên đều ẩn tàng thiên cơ mật nhiệm mà mãi đến hôm
nay mới chính thức được giải mã rốt ráo. Bài thơ chính 7 chữ có ý nói:
Ta là "Diêu trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn" xác định "Thiên Đạo Vô Vi" là "Đại nghĩa" của "Minh Thiên", là cơ cứu thế "lần ba" của "Bạch Ngọc Kinh" với danh xưng "Đại Đạo" và đích thực là do "Thiên Khai".
Minh Thiên và Huyền Minh là hai phàm danh của Đức Huyền Thiên Thượng Đế
khi Ngài thị thiện trên đất Trung Nguyên mà thế gian từng biết tới.
Chèn thêm một chữ vào mỗi câu (chìa khóa chữ tím) của bài thơ 4 chữ đầu thì nội dung của bài này sẽ hiển bày như sau:
"Diêu ý [ẩn] thiên cơ
Trì tâm [hành] đạo pháp
Kim [ngôn] hồi vô niệm
Mẫu [lai] đáo vi truyền
Vô thủy [chung] minh minh
[Địa] cực Sơn Thiên định
Từ hòa [nên] đại thể
[Giáo] Tôn hiệp nghĩa chung".
"Diêu ý [ẩn] thiên cơ
Trì tâm [hành] đạo pháp
Kim [ngôn] hồi vô niệm
Mẫu [lai] đáo vi truyền
Vô thủy [chung] minh minh
[Địa] cực Sơn Thiên định
Từ hòa [nên] đại thể
[Giáo] Tôn hiệp nghĩa chung".
Với
nội dung của bài thơ này, Thiên Mẫu Diêu Trì đã ký thác những lời nhắn
gởi tới Huyền Thiên Thượng Đế hiện đang có mặt dưới thế gian trong xác
phàm, tức là nhắn gởi tới vị "Giáo Tôn" lãnh sứ mạng "hiệp nghĩa chung". Đức Ngài cũng chính là vị "Sư Ông Cao Đại Nhất" đã nói qua.
Chèn thêm một chữ [chìa khóa, màu tím] vào mỗi câu của bài thơ 4 chữ cuối thì nội dung của bài này sẽ hiển bày như sau:
"Cơ Ngọc [Đế] giáng sinh
Pháp Kinh [Kỳ] lai thành,
Niệm quyển [cho] tròn nghĩa
Truyền ba [lần] vẹn danh,
Minh Thiên giáng [thế] để,
Định khai [giáo] còn dành
Thể đại đồng chiếu [viết]
Chung Đạo Bạch [Chơn] Thanh."
"Cơ Ngọc [Đế] giáng sinh
Pháp Kinh [Kỳ] lai thành,
Niệm quyển [cho] tròn nghĩa
Truyền ba [lần] vẹn danh,
Minh Thiên giáng [thế] để,
Định khai [giáo] còn dành
Thể đại đồng chiếu [viết]
Chung Đạo Bạch [Chơn] Thanh."
"Pháp Kinh Kỳ" là "pháp đạo" luyện mạng dùng thần dẫn khí đi vòng Nhâm Đốc là 2 mạch nằm trong "kỳ kinh bát mạch". "Truyền ba lần vẹn danh" là vẹn danh Cao Đài xuống thế ba lần trên đất nước Việt Nam.
Lần thứ nhất là Ngôi Hai Ngô Văn Chiêu, để truyền trao bí pháp Cao
Đài. Lần thứ hai là Nhị Thiên Võ Văn Phẩm, để truyền trao tân pháp Cao
Đài. Lần thứ ba là để "khai Giáo" và truyền "pháp kinh kỳ" cứu vớt "đại linh căn" lập đời Thánh Đức Tân Dân. Còn "Minh Thiên giáng thế" là Huyền Thiên giáng thế, là Ngôi Hai kỳ ba hay Nhị Thiên trào tam, là Sư Ông Cao Đại Nhất. "Để định, khai Giáo còn dành" là còn dành chờ Sư Ông Cao Đại Nhất đặt định việc khai giáo. Sứ mạng khai giáo của Sư Ông Cao Đại Nhất được "thể đại đồng" (tức là "Quần Tiên Hội) ấn chứng. "Chiếu viết" tức là có đủ Tam Ấn của Huyền Không Thiên Thượng phê chuẩn. Và "Giáo" đó là "Bạch Chơn Thanh" cũng là một "thể đại đồng".
Toàn
bộ nội dung trên là những lời mà Thiên Mẫu Diêu Trì muốn nhắn gởi tới
tất cả các Sư Ông và các Minh Sư đang thừa hành phận sự kỳ ba để các
ngài hiểu rõ về trọng trách của Sư Ông Cao Đại Nhất mà các ngài đã "thệ
ước" giúp sức trước khi xuống thế. Cũng như muốn bố cáo cho tất cả các đại linh căn đang chờ đợi ông lái đò kỳ ba biết rằng thuyền cứu thế kỳ ba lần chót đã tới:
"Tam Tòa Giáo đồng thanh tiến cử
Phật Như Lai danh dự trợ ngươn
Thánh Tiên toàn hải khắp sơn
Rắp nhau đề bạt linh chơn của Thầy
Trước hai ngàn hiệp vầy đại hội
Nơi Linh Tiêu thúc vội hạ sanh
[hạ sanh trước 2000 là đúng với hai mốc thời gian 1949-1967 đã trình bày qua ở trên]
Biết rằng quỷ quái cạnh tranh
Đi thì bao nỡ ở đành hay sao?
Các tinh quân xen vào thúc hối
Cùng với Thầy lo hội Long Hoa
Trên thì sẵn bố Thiên La
Dưới giăng Địa Võng tinh tà phải kiêng
Thầy lãnh lịnh xuống miền dương thế
Chờ đến ngày khánh tể triều bang"
(Di Lạc Chủ Ngươn, Ngọc Kinh 3, trang 34, Thiên Khai Huỳnh Đạo)
Xin lưu ý: Quyển Ngọc Kinh 3 của Thiên Khai Huỳnh Đạo, cũng giống như Tam Nhật Đàn của cơ quan linh hiển Bát Quái Đồ Thiên, là một văn bản "trấn môn" chứa đựng những tiên tri quan trọng mà Thầy Trời đã chỉ thị là chỉ được trao vào tay của những người xứng đáng, "chọn mặt gởi vàng", mà thôi.
Trong cuốn Kimh Sấm Ngũ Hồ, trang 88, xb năm 2001, Vô Danh Bần Sĩ cũng cho biết trước sự xuất lộ của Ngôi Hai kỳ ba vào năm Dậu:
"Tam niên thủy kiệt với sơn băng
Giáo khuyên sanh chúng liệu ăn năn
Qui y tam bảo tu hiền thánh
Nguyên lai bổn tánh có chi bằng.
Ngũ niên lục ngoạt khổ sinh linh
Chi xiết niềm đau khổ chiến chinh
Phục đáo, sơn đài Thiên Tử xuất
Nhất thống Dậu niên viếng Thái Bình."
(Kinh Sấm Ngũ Hồ, trang 88, 2001 của Bần Sĩ Vô Danh)
Hai chữ "Thiên Tử" hay "Con Trời" ở đây không phải để chỉ một vị "Vua" mà là để chỉ Đức "Ngôi Hai". Chúa Jesus là Chúa Trời xuống thế. Vì là chiết linh quang hạ phàm nên Chúa Trời xuống thế được tôn danh là Ngôi Hai dưới thế. Jesus là hiện thân của Chúa Trời nhưng đồng thời cũng là Con của Chúa Trời, nói cách nào cũng đúng. Đức Ngài Ngô Văn Chiêu là Ngọc Đế xuống thế lần thứ nhất trên đất nước Việt Nam. Vì là chiết linh quang của Ngọc Đế nên Đức Ngài được tôn danh là Ngôi Hai (chính xác hơn là Ngôi Hai trào một). Đức Ngài Võ Văn Phẩm là Ngọc Đế xuống thế lần hai trên đất nước Việt Nam. Vì là chiết linh quang của Ngọc Đế nên Đức Ngài được tôn danh là Nhị Thiên (Ngôi Hai trào hai). Rồi Ngọc Đế thêm một lần nữa xuống thế lần ba trên đất nước Việt Nam. Vì cũng là chiết linh quang của Ngọc Đế nên Đức Ngài được tôn danh là Hoàng Nhị Thiên (Ngôi Hai trào ba); Hoàng Nhị Thiên có nghĩa là Ngôi Hai của Hoàng Thiên được Thiên Thượng sử dụng để phân biệt giữa Ngôi Hai trào hai Võ Văn Phẩm với Ngôi Hai trào ba. Cho nên ba chữ "thiên tử xuất" không phải nói một vị vua xuất lộ mà là Ngôi Hai trào tam xuất lộ. Tinh thần "Đạo" của tám chữ khoán thủ "Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhất" cũng cho thấy rõ ràng ý nghĩa "Thiên Tử" là "Con Trời" là "Ngôi Hai" là "Nhị Thiên" là "Hoàng Nhị Thiên".
Đức Hoàng Nhị Thiên (Ngôi Hai trào tam, Nhị Thiên trào tam) "phục đáo" và xuất lộ từ "sơn đài" vào năm Dậu. Chiếu theo từ điển thì "phục" là trở lại, "đáo" là đến nơi, còn "sơn đài" là kỳ đài trên núi. Như vậy thì Ông Sư Cao Đại Hoàng Nhị Thiên từ chốn xa trở lại quê hương, đến nơi đỉnh núi trời định sẵn rồi lập kỳ đài để khai Thiên Đạo Kỳ Ba Vô Vi vào năm Dậu. Căn cứ theo những tiên tri khác thì năm Dậu này là năm con gà đỏ Đinh Dậu 2017. Không những Ngôi Hai trào tam "xuất lộ" năm Dậu mà đồng thời Ngài còn "xuất dương" trở ra hải ngoại trong năm Dậu để "khai giáo" lập nền "Quốc Khách Đại Đạo" cho cơ "nhất thống" về sau cho nên mới có sự kiện "viếng Thái Bình" (Thái Bình Dương).
Trong Kim Cổ Kỳ Quan của Hòa Hảo , Quyển 3, Cáo Thị Phần 1, trang 12, cũng nói đến Hoàng Nhị Thiên (Ngôi Hai kỳ ba, Nhị Thiên trào ba) và vai trò của Đức Ngài.
“Dĩ hậu lập đời phân Trời phân Phật
Nhị Thiên túc vật nội Phật ngoại Trời
Tây đặt thuận thời … “
(Kim Cổ Kỳ Quan, Quyển 3, Cáo Thị phần 1, trang 12, Hòa Hảo)
Hoặc trong Quyển 7, Thừa Nhàn, Phần 1, trang 3, cũng có nói:
“Từ ngôi Thánh Chúa ra làm
["Từ ngôi Thánh Chúa ra" = từ ngôi Thượng Đế ra = Ngôi Hai /Nhị Thiên]
Một muôn năm chẳng ngoài phàm Nhị Thiên
Phân chư lịch sách Đại miên
Bất tùng Thánh Giáo Nhị Thiên [thì] tiêu điều.
Văn chương thiên cổ thiệt nhiều
Bất tùng Thánh Đạo tiêu điều lòng khi.”
(Kim Cổ Kỳ Quan, Quyển 7, Thừa Nhàn phần 1, trang 3, Hòa Hảo)
Kim Mẫu Diêu Trì Vô Cực Đại Từ Tôn còn cho biết luôn cả những thông tin liên quan đến "lý lịch cá nhân" của Sư Ông Cao Đại Hoàng Nhị Thiên như là tên họ, học vấn, kiến thức, tánh chất, phong cách sống ... cũng như đặc tính địa hình chung quanh "sơn đầu" nơi mà Đức Ngài bất ngờ tiếp nhận sứ lệnh "khai giáo" do Cha Thượng Đế, Mẹ Diêu Trì và Tam Giáo ủy thác, đúng với câu "phùng sơn mới hiểu lý chơn hòa", và rồi tiếp nhận "pháp thiền" do Thiên Thượng "ban sách báu" cùng với "lãnh thiên thơ" để mà phối hợp với Cơ Thiên.
"Vàng nhờ sông lộ ẩn cơ Thiên [Vàng = Hoàng = Hoàng Thiên. Sông Lộ = Sông (Hà bộ thủy 河 ) + Lộ (đường đi) => chữ Hà hỏi đường (hà phương?) là chữ Hà bộ nhân 何 = cũng là Hà họ. Nghĩa câu: Hoàng Thiên ẩn trong xác thân họ Hà, đó là cơ thiên. Ý câu: Hoàng Nhị Thiên (Ngôi Hai) họ Hà]
Ngọc cậy sơn đầu đợi Pháp Thiền
[Ngọc = Ngọc Đế. Nghĩa câu: Ngọc Đế lên đỉnh núi cao đợi nhận pháp thiền. Ý câu: Hoàng Nhị Thiên, Ngôi Hai trào tam, lên đỉnh núi cao nhận pháp thiền]
Nước chảy há mòn thân bác lãm
Non chày nào mõi phận thâm uyên
[Hoàng Nhị Thiên có học vị và kiến thức, trải nhiều thử thách trong cuộc sống]
Tam khai định Đế hồn QUYÊN Thánh
[Điển tích Vọng Đế, vua Đỗ Vũ chết hóa thành chim đỗ quyên vọng quốc, như câu "Đỗ Vũ than đầu minh quốc quốc" hay "Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc" hay "nhớ nước đau lòng con quốc quốc". Do đó chữ hồn Quyên Thánh cũng đồng nghĩa với hồn Quốc Thánh]
Tứ chuyển đồ vương xác QUỐC Tiên
[Hoàng Nhị Thiên tên Quốc trải qua ba lần khai bốn lần chuyển trở thành là Quốc Thánh, Quốc Tiên]
Xử sự thân nhân tân tuyệt hiếu
Thành gương Nghiêu Thuấn đáp lương hiền.
Hiền thần ẩn tánh lánh danh nhơ
Trung nghĩa bần thanh giữ cõi bờ
Thiên ý giáng trần ban báu sách
Nhơn tâm tại thế lãnh Thiên Thơ."
(Ngọc Kinh 3, trang 42, TKHĐ 1967)...
"Tịnh sơn đỉnh một vùng sơn thái[trên một đỉnh núi yên tỉnh của vùng cao nguyên]
Sơn liên đầu một dãi thủy ba
[núi liền đầu chập chùng vây quanh, sáng chiều mây mù dàn trải như sóng nước]
Phùng sơn [mới] hiểu lý chơn hòa
[Hoàng Nhị Thiên lên núi rồi mới hiểu ra sự việc sứ mạng khai giáo của mình trong kiếp này]
Con ơi còn đó chờ ra bao giờ!"
[Tại sao Thiên Mẫu than thở? Vì như đã nói Ngôi Hai trào ba sanh ra giữa hai mốc thời gian 1949-1967 cho nên lúc thiên thơ này ban ra thì Ngài còn là một đứa bé cho nên tính đến thời điểm mà Ngài xuất lộ thì còn lâu lắm.]
(Ngọc Kinh 3, trang 48, TKHĐ 1967) \
Có thật sự là Sư Ông Cao Đại Hoàng Nhị Thiên (Ngôi Hai trào tam) họ HÀ tên QUỐC như Thiên Mẫu cho biết trong bài thiên thơ trên? Có rất nhiều thiên thơ và sấm ký cung cấp những thông tin về sự trở lại lần thứ ba trên đất nước VN của Thượng Đế, về nền Đại Đạo do Ngôi Cha "khai giáo" giao cho Ngôi Con dìu dẫn, cũng như về phần "xác trần" của Ngôi Con.
"Điện Ngọc Kim Loan đáo Cửu Trùng
HÀ THIÊN tỉnh giấc đáo gia trung
[Khi Mẹ Diêu Trì ngự xuống điện thờ thì ông Thiên họ Hà tức khắc tỉnh giấc quay đầu về ngôi xưa]
Trùng Cung giác Mộc Lôi Thiên định
Hoàng Ngọc Diêu Cung địa Chấn Hùng.
Nam QUỐC Ngọc Đài Hoa trở lại
[nam nhân tên Quốc của Bạch Ngọc Đài. Trở lại Hoa Kỳ hoặc trở lại từ Hoa Kỳ]
Ngũ Cung Hoàng Giác lệnh Thiên khai
Hoàng trung định Đông, Cung Bạch Đế
[Đông = Đông Mộc Chấn. Bạch Đế = Đế Bạch Ngọc Cung]
Địa thiên khai mở cửa Đông Lai.
Về chấn đại điệc niên tam thể
Lai trào kha vịnh NGỌC ĐẠI LIÊN
Đáo Hoa trung Thánh nhập Tam Tòa
[trở lại trung tâm Hoa Kỳ Thánh nhập Tam Tòa]
Thiên Bửu báu Ngọc Tòa xuất thế.
Châu Ngọc Bích xuyên đầu, ĐẠI ĐẾ
[xuyên = sông = hà đồng âm họ HÀ]
Vịnh tay tiên vịnh thể vô hình
Trào BÁCH TÙNG SƠN BẢO vô vi
Long Hoa Hội NHỊ THIÊN khai đạo.
Thiên niên kỷ CHÍN RỒNG hoa gấm
Dịch chân kinh lộ QUỐC Nam Thiên
Trường vô vi công lực thần kỳ
Hoàn đơn giác lưu ly hòa thể.
Thâu gồm bốn chấn đại càn khôn
Hỏa lực lưu châu đấng Mẫu Tôn
Nghiêu Thuấn địa khai miền hạ giới
Trùng Cung đỉnh thể Đại Từ Tôn.
Chiếu viết hồi trào lai ngoại quốc
... Hầu vương DI LẠC vòng Hoa Mỹ
[vòng Hoa Mỹ = vòng qua Hoa Kỳ nước Mỹ]
Triều đại tam ngươn quyết định rồi.
…
Đại Đạo Kỳ thiên bút còn ghi
ĐẠI LÔI ÂM HẢI HỘI LIÊN TRÀO
Sông Cửu Khúc ĐỒ THIÊN đã định.
Cứu nhân loại thoát vòng sanh tử
Điển thông thiên điển hội Tam Gia
[huynh trưởng = Đức Ngôi Hai trào một là huynh trưởng của Ngôi Hai trào tam]
Cửa Trào Tam vừa mở hôm qua
Theo Chí Tôn đức cả Cao Đài
Ngô, Chấn QUỐC, là TRỜI THƯỢNG ĐẾ.
[Cả hai người Ngô Văn Chiêu và Chấn Quốc, đều là Ngôi Hai chiết linh quang của Trời Thượng Đế.]
Nay cho biết cơ trời hé lộ
Thập tam ngươn vừa đợi vừa trông
Điển Đại Lôi cho biết Cửu Trùng [Đại Lôi = Đại Lôi Âm]
NỀN ĐẠI ĐẠO KỲ BA ĐÃ MỞ.
…
Lập hội mới, Ngài KHAI ĐẠI ĐẠO
Đúng Mồng 2 Tháng 8 Cơ Trời
Phải chay trường tịnh giới NGHIÊM MINH
Theo luật định Tòa Đình xuất thế.
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Chơn Kinh Ngọc Đế Ma Ha, ngày 1 tháng 1 năm Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
"GIÁO CHỦ TIÊN ÔNG thể NGỌC HOÀNG
Chơn truyền khắp nẻo về Nam Bang
Hồng Bàng chuyển động Tam Trào điển
Vô Lực Vô Vi điển NGỌC HOÀNG."
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Bạch Chơn Giáo, ngày 12 tháng 1 năm Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Cảnh trí thiên nhiên trước sắp bày
Huyền vi lố bóng ĐẠO HOẰNG KHAI
[Thầy đã giáng đạo từ năm 1924 và Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ khai sinh từ năm 1926 thì không thể nói là đạo lố bóng hoằng khai được. "Kinh Bình Minh Đại Đạo" cũng không phải là "Bình Minh Đại Đạo". Vì vậy, vào thời điểm tả kinh, "huyền vi lố bóng đạo hoằng khai" phải là ám chỉ cơ Thiên Đạo kỳ ba vô vi ngày sau.]
Non sông bốn mặt, Trời soi sáng
Nhơn vật mười phương đất chuyển xoay.
Sứ mạng "tam kỳ" trao Việt QUỐC
Chủ quyền nhứt thống lập Cao Đài
[Việt Quốc là người tên Quốc tộc Việt; Việt Quốc không phải là Nước Việt vì Ơn Trên chưa bao giờ dùng chữ Việt Quốc để chỉ đất nước Việt Nam mà dùng chữ Nam Phương hay Nam Bang. "Tam kỳ" vừa là "lần thứ ba trở lại" (đảo ngữ) vừa là "ba lần trở lại" (xét trong tương quan ý nghĩa với bốn chữ "thống nhứt Cao Đài"]
Hạ Nguơn sĩ tử mau mau bước
Ổn định càn khôn đã đến ngày.”
(Điển thi của Ngôi Hai Ngô Minh Chiêu, đàn giờ Tuất ngày 14 tháng 3 năm Đinh Mùi hay ngày 23 tháng 4 năm 1967, Lễ Kỷ niệm Đức Ngôi Hai Giáo Chủ, Cao Đài Hội Thánh, Dương Đông Phú Quốc.)
“Chuyển bửu pháp hiện Di Lạc QUỐC
Nam miền châu thổ đến Cà Mau
Bửu Sơn Phật Tổ, Thầy xoay chuyển
Định pháp chuyển căn lập Cửu Trùng.
…
An Nam cư, QUỐC, Lạc kỳ nhân [Lạc kỳ nhân = kỳ nhân của Hồng Lạc]
Đạo pháp Kỳ Sơn, Vua hiện trần [Kỳ Sơn = Bửu Sơn Kỳ Hương]
Thánh Đế Ngọc Hoàng chiếu điển Mẫu
Linh đơn hoàn thể trở về Nam.”
[Linh đơn hoàn thể = hoàn lại bản thể thánh linh, trở thành Ngôi Hai trào tam. Trở về Nam là trở về Nam VN]
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Công Trình, ngày 12 tháng 1 năm Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Ngọc Ngọc trùng lộ Bạch Vân đang
Hoàng Đế hồi lai tá QUỐC Hoàng [Hoàng = Hoàng Nhị Thiên]
Thượng Thượng minh minh HÀ chi QUỐC
Đế Đế vận hành giải suy nan
Tối Thượng vô không bày sắc cuộc
Cao Cao âm diệu chiếu công năng
Thượng Thiên Hoàng Ngọc trùng lai phước
Cõi Cõi hư vô dựng bức màn
[Khoán 1: Ngọc Hoàng Thượng Đế Tối Cao Thượng Cõi. Khoán 2: Ngọc Đế Thượng Đế Tối Cao Thiên Cõi]
Ấn Hoàng Thiên lịnh xoay thời ngược
Chỉ Giáo Tòa Đường hà ý khang
Huyền Thiên khép luật mùa xuân trước
Hành đúng lịnh kỳ giữ giang san
...
Thượng vô cao cả HÀ HƯNG bước
Thiên lịnh Đông HÀ THIÊN sứ mang
Lưu danh không lộ dù xuôi ngược
Hạ đáo tầm phương gánh tuồng màn
Lộ ngọc kim giai hà uy rượt
Kỳ phát đăng quang QUỐC HÀ sang
... Đại Thiên Tam Giáo đang thao lược
Hội Long kỳ luân chuyển xứ an bang.”
(Pháp Âm 119. Đàn giờ Mão ngày 19 tháng 12AL Đinh Dậu 2017. Đạo tràng Nam Thành. Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền )
“Phần thứ mười Đò Chiều chuyển bến
Ai có tên về trển gặp Thầy
Đạo Khùng, Đạo QUỐC, Đạo Thầy
Không xây được nước thì đây thế tàn
Kỳ Tư Đạo QUỐC khai trương”
(Phật Sử Tiên Rồng, dòng 377-383, điển thi của Đức Vô Danh Thị, ngày 4 tháng 4 năm Nhâm Ngọ 2002, trong cuốn Đường Về Phật Quốc ấn tống năm 2012)
“Sao lại nói tu thêm QUỐC Đạo
“Trùng trùng dậy cuộc bể dâu
“Có ai hiểu biết Hư Không
Tìm nhau để chứng "Đạo Không" đắc thành
[Đạo Không = Đạo Vô Vi]
Thích Như Lai chấp kinh Đạo QUỐC”
(Đường Về Phật Quốc: Cơ Thiên Đầu Thế Kỷ, dòng 135-137, điển thi 2001-2008, ấn tống 2014)
“Pháp tâm Đạo QUỐC thiện từ
Toàn dân truyền lệnh Chơn Sư ra đời”
[hai chữ "chơn sư" giúp xác quyết Đạo Quốc là "ông đạo tên Quốc" theo kiểu nói của dân Lục Tỉnh]
(Dòng 77-78. Ơn Trên Nhắn Nhủ. Điển thi Rằm tháng 8 năm 2003. Thiên Ánh Đạo Vàng)
“Mở mang Đạo QUỐC từ bi
Tứ Ân Hiếu Nghĩa thiên y Phật dành
Long Hoa Vân Hội Liên Thanh
Từ tâm vô lượng Ngọc Thanh, Phật Thầy
[Ngọc Thanh = Ngọc Thanh Tiên Trưởng = ông Cử Đa. Phật Thầy = Phật Thầy Tây An]
Nay pháp kệ truyền chung bốn bể
Tu! Tu! Tu! qui Đạo QUỐC về
Người xưa Tiên Thánh ước thề
Thiên lệnh Thượng Đế hướng về Liên Hoa
Rồng mây Long Hội hương hoa
Khắp trời thơm ngát pháp tòa khắp nơi”
(Dòng ?. Đường Về Phật Quốc: Cơ Thiên Đầu Thế Kỷ, điển thi 2001-2008, ấn tống 2014, Thiên Ánh Đạo Vàng)
“Đạt lai căn bổn tánh tâm lai
[đạt = thành tựu; lai = trở lại. Hai chữ "đạt lai" này không phải là Đạt Lai Lạt Ma. Câu này ý nói đã thành tựu trong việc hườn lại căn nguyên bổn tánh Như Lai tâm]
Tuyên định nguyên căn đã ấn bài
[vị này là một "nguyên căn" đã được chọn lựa, đã thành tựu hườn nguyên như đã nói ở câu trên]
Thanh điển về trào tam lục ngoại
[hai câu trên + "thanh điển về trào tam" trong câu này là để chỉ "Ngôi Hai trào tam", lúc "đạt lai căn bổn tánh tâm lai" thì Ngài đã ngoài 60 tuổi (lục ngoại = ngoại lục tuần)]
Kiêu hùng đoàn mới duyệt trùng lai.
[Duyệt = hòa duyệt. Ngôi Hai trào tam cùng phái đoàn vô vi (vô hình) vượt trùng dương trở lại ngoại quốc]
Như Lai kiến thiết chuyện Đông Lai
Hà bạc đấp xây được đến Ngài
Hồ báo sắp bài thời mạc vận
[báo = thông báo. Hồ = Hồ Hán Thương, là một vị đại tiên có mặt trong phái đoàn vô vi]
Tranh hùng thúc dục kiến thiên thai.
Đã đến lúc hồi trào ngoại quốc
Dựng cờ Thiên theo đạo Huỳnh Sơn
Bửu Ngọc chân truyền kỳ Đại Đạo
Thiên thơ chuyển đến QUỐC Tiên Thiên”
[ông Thiên tên Quốc](Đàn Tắc Vân, thiên thơ Đại Chủng Tánh, ngày 8 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Khắp thế giới chung nhà Phật QUỐC
Đức Thiên Cung ban thuốc Tiên Thần
Mươi vạn một thuở chuyển luân
Truyền nghe lắng điển thơ tuân thuận cùng.”
(Đường Về Phật Quốc: Hòa Đồng Đạo Linh, tr. 45, ấn tống 2012, Thiên Ánh Đạo Vàng)
“Thiên khai Mã á hồi quy
[Mã á = Ngọ = ngựa. Ngọ 午 chiết tự là chữ nhân 人 trên thập 十 dưới. "Mã á hồi qui" = nhân thập quay về tập hội. Chính xác với câu sấm "có Thầy nhân thập đi về, tả hữu phù trì cây cỏ thành binh" của Trạng Trình 500 năm trước. "Thầy" đây là Ngôi Hai, cách xưng hô đặc trưng Cao Đài]
Đồ thư đã có tâm thư sẵn dành
Một năm xong chín con rồng
[tiên tri trước 9 vị Thiên Long sẽ xuất hiện và kết nối cơ đại đạo trong vòng một năm]
Thuyền từ Tây tạng khởi dòng Nam Bang
[Tạng = tàng, theo nghĩa hành tàng, nơi chốn tạm trú. "Tây tạng" là từ nơi tạm trú ở phương Tây, không có ý nói đến xứ Tây Tạng. Nghĩa của câu này là: con thuyền đạo xuất phát từ nơi tạm trú ở phương Tây (Hoa Kỳ) trở về lại VN (ngược dòng Nam Bang)]
Quang, Sang, Hải, Trọng Hồng Bàng
[đúng vào thời điểm VN có 4 nhân vật tên Quang, Sang, Hải, Trọng]
Ra khơi xây đấp một đàng tinh khôi
[tinh = tinh quái; khôi = khôi hài]
Lưu ly ngọc Bích đến nơi
[Lưu ly ngọc Bích = Lưu Bích = dòng xanh = sông = hà bộ thủy = đồng âm họ Hà bộ nhân. Lưu Bích = Hà. Nghỉa câu này là: Hoàng Nhị Thiên họ Hà đến nơi]Cơ thiên huyền bí giống nòi Việt Nam.
Phàm làm Thánh Đức trào tam
Điển thanh mời gọi, đậu hàm học cao
Lão Sư ngự ở ngôi cao
Vâng trào lĩnh chỉ Hội Trào Giống Tiên.
HÀ THIÊN tỉnh giấc đáo gia trung
[Khi Mẹ Diêu Trì ngự xuống điện thờ thì ông Thiên họ Hà tức khắc tỉnh giấc quay đầu về ngôi xưa]
Trùng Cung giác Mộc Lôi Thiên định
Hoàng Ngọc Diêu Cung địa Chấn Hùng.
Nam QUỐC Ngọc Đài Hoa trở lại
[nam nhân tên Quốc của Bạch Ngọc Đài. Trở lại Hoa Kỳ hoặc trở lại từ Hoa Kỳ]
Ngũ Cung Hoàng Giác lệnh Thiên khai
Hoàng trung định Đông, Cung Bạch Đế
[Đông = Đông Mộc Chấn. Bạch Đế = Đế Bạch Ngọc Cung]
Địa thiên khai mở cửa Đông Lai.
Về chấn đại điệc niên tam thể
Lai trào kha vịnh NGỌC ĐẠI LIÊN
Đáo Hoa trung Thánh nhập Tam Tòa
[trở lại trung tâm Hoa Kỳ Thánh nhập Tam Tòa]
Thiên Bửu báu Ngọc Tòa xuất thế.
Châu Ngọc Bích xuyên đầu, ĐẠI ĐẾ
[xuyên = sông = hà đồng âm họ HÀ]
Vịnh tay tiên vịnh thể vô hình
Trào BÁCH TÙNG SƠN BẢO vô vi
Long Hoa Hội NHỊ THIÊN khai đạo.
Thiên niên kỷ CHÍN RỒNG hoa gấm
Dịch chân kinh lộ QUỐC Nam Thiên
Trường vô vi công lực thần kỳ
Hoàn đơn giác lưu ly hòa thể.
Thâu gồm bốn chấn đại càn khôn
Hỏa lực lưu châu đấng Mẫu Tôn
Nghiêu Thuấn địa khai miền hạ giới
Trùng Cung đỉnh thể Đại Từ Tôn.
Chiếu viết hồi trào lai ngoại quốc
... Hầu vương DI LẠC vòng Hoa Mỹ
[vòng Hoa Mỹ = vòng qua Hoa Kỳ nước Mỹ]
Triều đại tam ngươn quyết định rồi.
…
Đại Đạo Kỳ thiên bút còn ghi
ĐẠI LÔI ÂM HẢI HỘI LIÊN TRÀO
Sông Cửu Khúc ĐỒ THIÊN đã định.
Cứu nhân loại thoát vòng sanh tử
Điển thông thiên điển hội Tam Gia
Thế CHÍ TÔN đại lực THIÊN TRIỀU
Ra lệnh mới thiên thần giúp lực.
Này huynh trưởng lo toan đúng lúc [huynh trưởng = Đức Ngôi Hai trào một là huynh trưởng của Ngôi Hai trào tam]
Cửa Trào Tam vừa mở hôm qua
Theo Chí Tôn đức cả Cao Đài
Ngô, Chấn QUỐC, là TRỜI THƯỢNG ĐẾ.
[Cả hai người Ngô Văn Chiêu và Chấn Quốc, đều là Ngôi Hai chiết linh quang của Trời Thượng Đế.]
Nay cho biết cơ trời hé lộ
Thập tam ngươn vừa đợi vừa trông
Điển Đại Lôi cho biết Cửu Trùng [Đại Lôi = Đại Lôi Âm]
NỀN ĐẠI ĐẠO KỲ BA ĐÃ MỞ.
…
Lập hội mới, Ngài KHAI ĐẠI ĐẠO
Đúng Mồng 2 Tháng 8 Cơ Trời
Phải chay trường tịnh giới NGHIÊM MINH
Theo luật định Tòa Đình xuất thế.
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Chơn Kinh Ngọc Đế Ma Ha, ngày 1 tháng 1 năm Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
"GIÁO CHỦ TIÊN ÔNG thể NGỌC HOÀNG
Chơn truyền khắp nẻo về Nam Bang
Hồng Bàng chuyển động Tam Trào điển
Vô Lực Vô Vi điển NGỌC HOÀNG."
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Bạch Chơn Giáo, ngày 12 tháng 1 năm Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Cảnh trí thiên nhiên trước sắp bày
Huyền vi lố bóng ĐẠO HOẰNG KHAI
[Thầy đã giáng đạo từ năm 1924 và Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ khai sinh từ năm 1926 thì không thể nói là đạo lố bóng hoằng khai được. "Kinh Bình Minh Đại Đạo" cũng không phải là "Bình Minh Đại Đạo". Vì vậy, vào thời điểm tả kinh, "huyền vi lố bóng đạo hoằng khai" phải là ám chỉ cơ Thiên Đạo kỳ ba vô vi ngày sau.]
Non sông bốn mặt, Trời soi sáng
Nhơn vật mười phương đất chuyển xoay.
Sứ mạng "tam kỳ" trao Việt QUỐC
Chủ quyền nhứt thống lập Cao Đài
[Việt Quốc là người tên Quốc tộc Việt; Việt Quốc không phải là Nước Việt vì Ơn Trên chưa bao giờ dùng chữ Việt Quốc để chỉ đất nước Việt Nam mà dùng chữ Nam Phương hay Nam Bang. "Tam kỳ" vừa là "lần thứ ba trở lại" (đảo ngữ) vừa là "ba lần trở lại" (xét trong tương quan ý nghĩa với bốn chữ "thống nhứt Cao Đài"]
Hạ Nguơn sĩ tử mau mau bước
Ổn định càn khôn đã đến ngày.”
(Điển thi của Ngôi Hai Ngô Minh Chiêu, đàn giờ Tuất ngày 14 tháng 3 năm Đinh Mùi hay ngày 23 tháng 4 năm 1967, Lễ Kỷ niệm Đức Ngôi Hai Giáo Chủ, Cao Đài Hội Thánh, Dương Đông Phú Quốc.)
“Chuyển bửu pháp hiện Di Lạc QUỐC
Nam miền châu thổ đến Cà Mau
Bửu Sơn Phật Tổ, Thầy xoay chuyển
Định pháp chuyển căn lập Cửu Trùng.
…
An Nam cư, QUỐC, Lạc kỳ nhân [Lạc kỳ nhân = kỳ nhân của Hồng Lạc]
Đạo pháp Kỳ Sơn, Vua hiện trần [Kỳ Sơn = Bửu Sơn Kỳ Hương]
Thánh Đế Ngọc Hoàng chiếu điển Mẫu
Linh đơn hoàn thể trở về Nam.”
[Linh đơn hoàn thể = hoàn lại bản thể thánh linh, trở thành Ngôi Hai trào tam. Trở về Nam là trở về Nam VN]
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Công Trình, ngày 12 tháng 1 năm Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Ngọc Ngọc trùng lộ Bạch Vân đang
Hoàng Đế hồi lai tá QUỐC Hoàng [Hoàng = Hoàng Nhị Thiên]
Thượng Thượng minh minh HÀ chi QUỐC
Đế Đế vận hành giải suy nan
Tối Thượng vô không bày sắc cuộc
Cao Cao âm diệu chiếu công năng
Thượng Thiên Hoàng Ngọc trùng lai phước
Cõi Cõi hư vô dựng bức màn
[Khoán 1: Ngọc Hoàng Thượng Đế Tối Cao Thượng Cõi. Khoán 2: Ngọc Đế Thượng Đế Tối Cao Thiên Cõi]
Ấn Hoàng Thiên lịnh xoay thời ngược
Chỉ Giáo Tòa Đường hà ý khang
Huyền Thiên khép luật mùa xuân trước
Hành đúng lịnh kỳ giữ giang san
...
Thượng vô cao cả HÀ HƯNG bước
Thiên lịnh Đông HÀ THIÊN sứ mang
Lưu danh không lộ dù xuôi ngược
Hạ đáo tầm phương gánh tuồng màn
Lộ ngọc kim giai hà uy rượt
Kỳ phát đăng quang QUỐC HÀ sang
... Đại Thiên Tam Giáo đang thao lược
Hội Long kỳ luân chuyển xứ an bang.”
(Pháp Âm 119. Đàn giờ Mão ngày 19 tháng 12AL Đinh Dậu 2017. Đạo tràng Nam Thành. Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền )
“Phần thứ mười Đò Chiều chuyển bến
Ai có tên về trển gặp Thầy
Đạo Khùng, Đạo QUỐC, Đạo Thầy
Không xây được nước thì đây thế tàn
Kỳ Tư Đạo QUỐC khai trương”
(Phật Sử Tiên Rồng, dòng 377-383, điển thi của Đức Vô Danh Thị, ngày 4 tháng 4 năm Nhâm Ngọ 2002, trong cuốn Đường Về Phật Quốc ấn tống năm 2012)
“Sao lại nói tu thêm QUỐC Đạo
Vì QUỐC lão là Đức Phật-Trời
[hai chữ Quốc lão giúp xác quyết Quốc Đạo là "đạo của ông Quốc" theo kiểu nói của dân Lục Tỉnh]Sau này Phật QUỐC lập đời
Ai mà hiểu được tức thời Thánh Tiên
Đây là lúc Thánh Hiền thị hiện
Cho đồng bào biết Vạn Thánh Tiên
Chờ khi Phật hiện Nam Thiên
Là ngày nhứt định cơ thiên xoay vần
Long Vân Hội đã cân số phận
Ai là vị Tâm Phật Đức Siêu
Vô vi tọa đỉnh tịch liêu
["đỉnh tịch liêu" cũng đồng nghĩa với "tịnh đầu sơn" trong thiên thơ của Mẹ Diêu Trì ở trên.] [Phối kiểm lại câu này ứng với việc Hoàng Nhị Thiên đăng sơn tu tập trên Thổ Đầu Sơn ở Tây Nguyên.]
Linh tâm đại định phép nhiều như mưa”
[Linh tâm đại định = Phật Đà. Phép nhiều như mưa = Đa Bảo. Tòan câu = Đa Bảo Phật Đà = Bảo Đà. Phối kiểm lại câu này ứng với tháp Bảo Đà của Hoàng Nhị Thiên trên Thổ Đầu Sơn.]
Chờ khi Phật hiện Nam Thiên
Là ngày nhứt định cơ thiên xoay vần
Long Vân Hội đã cân số phận
Ai là vị Tâm Phật Đức Siêu
Vô vi tọa đỉnh tịch liêu
["đỉnh tịch liêu" cũng đồng nghĩa với "tịnh đầu sơn" trong thiên thơ của Mẹ Diêu Trì ở trên.] [Phối kiểm lại câu này ứng với việc Hoàng Nhị Thiên đăng sơn tu tập trên Thổ Đầu Sơn ở Tây Nguyên.]
Linh tâm đại định phép nhiều như mưa”
[Linh tâm đại định = Phật Đà. Phép nhiều như mưa = Đa Bảo. Tòan câu = Đa Bảo Phật Đà = Bảo Đà. Phối kiểm lại câu này ứng với tháp Bảo Đà của Hoàng Nhị Thiên trên Thổ Đầu Sơn.]
(Long Hoa Đạo Từ, thứ sáu, số 5564, 2 tháng 3 năm 2001, trang C13, Báo Người Việt)
“Trùng trùng dậy cuộc bể dâu
Mười phần thất bảy, hai sầu, một tu
Đạo tràng vạn kiếp thầm tu
Hùm thiêng HƯNG QUỐC Đạo tu an nhàn
Sắp ngày lập lại vạn an
Việt Nam QUỐC Đạo, Trời ban Phật về
Cùng nhau tôn giáo lời thề
Tu cho đắc đạo về quê Nước Trời”
[Nước Trời = Thiên Quốc]
[Nước Trời = Thiên Quốc]
(Tiên Rồng Long Hoa , Việt Nam Dân Tộc Đạo, ngày 14 tháng 4 Năm 2001, Nguyệt San Khỏe Đẹp số 726, tr.24)
“Có ai hiểu biết Hư Không
Tìm nhau để chứng "Đạo Không" đắc thành
[Đạo Không = Đạo Vô Vi]
Thích Như Lai chấp kinh Đạo QUỐC”
(Đường Về Phật Quốc: Cơ Thiên Đầu Thế Kỷ, dòng 135-137, điển thi 2001-2008, ấn tống 2014)
“Pháp tâm Đạo QUỐC thiện từ
Toàn dân truyền lệnh Chơn Sư ra đời”
[hai chữ "chơn sư" giúp xác quyết Đạo Quốc là "ông đạo tên Quốc" theo kiểu nói của dân Lục Tỉnh]
(Dòng 77-78. Ơn Trên Nhắn Nhủ. Điển thi Rằm tháng 8 năm 2003. Thiên Ánh Đạo Vàng)
“Mở mang Đạo QUỐC từ bi
Tứ Ân Hiếu Nghĩa thiên y Phật dành
Long Hoa Vân Hội Liên Thanh
Từ tâm vô lượng Ngọc Thanh, Phật Thầy
[Ngọc Thanh = Ngọc Thanh Tiên Trưởng = ông Cử Đa. Phật Thầy = Phật Thầy Tây An]
Nay pháp kệ truyền chung bốn bể
Tu! Tu! Tu! qui Đạo QUỐC về
Người xưa Tiên Thánh ước thề
Thiên lệnh Thượng Đế hướng về Liên Hoa
Rồng mây Long Hội hương hoa
Khắp trời thơm ngát pháp tòa khắp nơi”
(Dòng ?. Đường Về Phật Quốc: Cơ Thiên Đầu Thế Kỷ, điển thi 2001-2008, ấn tống 2014, Thiên Ánh Đạo Vàng)
“Đạt lai căn bổn tánh tâm lai
[đạt = thành tựu; lai = trở lại. Hai chữ "đạt lai" này không phải là Đạt Lai Lạt Ma. Câu này ý nói đã thành tựu trong việc hườn lại căn nguyên bổn tánh Như Lai tâm]
Tuyên định nguyên căn đã ấn bài
[vị này là một "nguyên căn" đã được chọn lựa, đã thành tựu hườn nguyên như đã nói ở câu trên]
Thanh điển về trào tam lục ngoại
[hai câu trên + "thanh điển về trào tam" trong câu này là để chỉ "Ngôi Hai trào tam", lúc "đạt lai căn bổn tánh tâm lai" thì Ngài đã ngoài 60 tuổi (lục ngoại = ngoại lục tuần)]
Kiêu hùng đoàn mới duyệt trùng lai.
[Duyệt = hòa duyệt. Ngôi Hai trào tam cùng phái đoàn vô vi (vô hình) vượt trùng dương trở lại ngoại quốc]
Như Lai kiến thiết chuyện Đông Lai
Hà bạc đấp xây được đến Ngài
Hồ báo sắp bài thời mạc vận
[báo = thông báo. Hồ = Hồ Hán Thương, là một vị đại tiên có mặt trong phái đoàn vô vi]
Tranh hùng thúc dục kiến thiên thai.
Đã đến lúc hồi trào ngoại quốc
Dựng cờ Thiên theo đạo Huỳnh Sơn
Bửu Ngọc chân truyền kỳ Đại Đạo
Thiên thơ chuyển đến QUỐC Tiên Thiên”
[ông Thiên tên Quốc](Đàn Tắc Vân, thiên thơ Đại Chủng Tánh, ngày 8 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Khắp thế giới chung nhà Phật QUỐC
Đức Thiên Cung ban thuốc Tiên Thần
Mươi vạn một thuở chuyển luân
Truyền nghe lắng điển thơ tuân thuận cùng.”
(Đường Về Phật Quốc: Hòa Đồng Đạo Linh, tr. 45, ấn tống 2012, Thiên Ánh Đạo Vàng)
“Thiên khai Mã á hồi quy
[Mã á = Ngọ = ngựa. Ngọ 午 chiết tự là chữ nhân 人 trên thập 十 dưới. "Mã á hồi qui" = nhân thập quay về tập hội. Chính xác với câu sấm "có Thầy nhân thập đi về, tả hữu phù trì cây cỏ thành binh" của Trạng Trình 500 năm trước. "Thầy" đây là Ngôi Hai, cách xưng hô đặc trưng Cao Đài]
Đồ thư đã có tâm thư sẵn dành
Một năm xong chín con rồng
[tiên tri trước 9 vị Thiên Long sẽ xuất hiện và kết nối cơ đại đạo trong vòng một năm]
Thuyền từ Tây tạng khởi dòng Nam Bang
[Tạng = tàng, theo nghĩa hành tàng, nơi chốn tạm trú. "Tây tạng" là từ nơi tạm trú ở phương Tây, không có ý nói đến xứ Tây Tạng. Nghĩa của câu này là: con thuyền đạo xuất phát từ nơi tạm trú ở phương Tây (Hoa Kỳ) trở về lại VN (ngược dòng Nam Bang)]
Quang, Sang, Hải, Trọng Hồng Bàng
[đúng vào thời điểm VN có 4 nhân vật tên Quang, Sang, Hải, Trọng]
Ra khơi xây đấp một đàng tinh khôi
[tinh = tinh quái; khôi = khôi hài]
Lưu ly ngọc Bích đến nơi
[Lưu ly ngọc Bích = Lưu Bích = dòng xanh = sông = hà bộ thủy = đồng âm họ Hà bộ nhân. Lưu Bích = Hà. Nghỉa câu này là: Hoàng Nhị Thiên họ Hà đến nơi]Cơ thiên huyền bí giống nòi Việt Nam.
Phàm làm Thánh Đức trào tam
Điển thanh mời gọi, đậu hàm học cao
Lão Sư ngự ở ngôi cao
Vâng trào lĩnh chỉ Hội Trào Giống Tiên.
[đúng
với huyền khải trong Ngọc Kinh III của Thiên Khai Huỳnh Đạo năm 1967
"Đạo đổi lối thì đời thay cuộc. Cậy tay phàm cầm đuốc sáng soi." Tay
phàm "làm Thánh Đức trào tam" này là Ngôi Hai kỳ ba, Ngài có học hàm
cao, là vị Lão Sư lĩnh chỉ của Huyền Không Hội Trào Giống Tiên.] Thuyền liên hộ giá tôn nghiêm
[thuyền liên = liên thuyền đạo = liên tôn giáo]
Vua Nghiêu vua Thuấn đại dìu Càn Khôn.
Chúng đại đệ tử tiền đồn
Vào qua sông Mã quy hồi về đây.”
[sông = hà 河 bộ thủy= đồng âm với hà 何 bộ nhơn = Hà họ. Mã = ngựa = Ngọ 午 chiết tự nhân 人 trên thập 十 dưới. “sông Mã qui hồi về đây” có nghĩa là "Thầy Nhân Thập họ Hà" qui hồi về Nam Bang.]
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Gởi Đạo Đồng Ngoại Quốc, ngày 10 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Cửu Trùng chuyển vận tầng không
Mây hồng tám đóa Mộc kỳ một châu.
Long Hoa Hội đời bách vân
THIÊN Huỳnh HÀ đẳng đứng đầu QUỐC gia
[Huỳnh = Huỳnh Long = Huỳnh Đế. Thiên Huỳnh Hà = Huỳnh Long Hà Thiên]
Lời vàng Thánh Đế triều ca
Quy hồi TAM GIÁO gọi là THIÊN SƠN.
…
Đây môn hạ đồ thơ HÀ Dịch
Viết rõ ràng theo đất Thiên Khai
Lập nên Sơn Đạo Huỳnh Kỳ
HÀ HƯNG QUỐC Chấn đại đầu Hà Tiên.”
[cái gì tới chỗ cùng cực gọi là đại. Đầu = đầu trên hoặc đầu dưới. Hà Tiên là chỗ dưới cùng của Việt Nam nên gọi là "đại đầu Hà Tiên. Câu này ứng vào nơi sinh ở Hà Tiên của Ngôi Hai trào tam tên Hà Hưng Quốc]
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Thiên Địa Hợp Thành, ngày 13 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Thiên Đế vừa ban ấn chỉ bài
[Thiên Đế = Thiên Hoàng Thượng Đế]
Long tuyền mạch đất vận thời lai
Giang đầu thiên đảnh thời Chiêu Lạc
[Giang = sông = hà 河 bộ thủy, đồng âm với Hà 何 họ. Đầu = thủ lĩnh = Hùng. Thông Điển năm 801 ghi: 以富為雄 – Dĩ phú vi hùng. Có thể dịch thành “giàu có thì làm thủ lĩnh” (trích dẫn Trương Thái Du). Chữ Hùng 雄 này chính là Hùng trong danh xưng Vua Hùng. Chiêu = Chiêu Vương Minh Tông Thần Công Hoàng Đế, vua Hùng chi thứ 7, Hoàng tử Liêu Lang. Lạc = Lạc Long hoặc là Lạc Việt. Tiết lộ tiền thân Ngôi Hai họ Hà]Điểm đặt Long Châu ứng chủ khai.
Xuống khúc Long Châu thời minh nguyệt
Hạ phàm giang lật ngược HÀ song
[Xuống khúc = xuống trần chỗ = sinh ra chỗ. Long Châu = tỉnh Long Châu Hà xưa kia. Thời minh nguyệt = vào thời gian trăng sáng. Hạ phàm giang = sinh ra bên cạnh con sông. Lật ngược Hà song = song Hà = hai Hà = sông Hà Tiên chạy ngang qua chợ Hà Tiên. Hai câu này ứng chính xác vào nơi chốn và thời gian hạ sinh của Ngôi Hai trào tam Hà Hưng Quốc (sinh đêm 14AL tại chợ thị trấn Hà Tiên cạnh sông Hà Tiên)]
Thiên Môn chiếu lịnh Thiên Tùng khải
[Thiên Tùng là pháp hiệu của Phật Thầy. Khải = nói cho biết]
Đặt định Thiên Hoàng đặt định khai.
[đây là chuyện Thiên Hoàng đã đặt định, nay là lúc khai mở]
Mười hai cửa đạo dựng Tam Ngôi
[12 chi đạo]
Thế giới đồng liêu thượng giới ngồi
Nhất Cửu đồng Huỳnh Kim Khế hội
Lời truyền Thánh Đức vạn thời Tôi.
Khai Kim Khế hợp thời cơ khai
Đặt định Thế Tôn hiệu triệu Ngài
[Ngài = Ngôi Hai trào tam]
Liên đỉnh Hồng-Huỳnh khai khế hội
Lịnh trình chiếu định ấn Như Lai.
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Thiên Long Giang Điểm, ngày 29 tháng 4AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Vô vi trực chỉ một lời tối cao
Lời thượng đẳng Huỳnh Quang Thượng Tổ
Gởi thăm HÀ HƯNG QUỐC lương sơn
Cảnh đời chuyển thể tỏ tường
…
Lời đắc pháp Tòa Đình hiện đến
Chuyển càn khôn mười tám nước về
Vòng tròn châu lục hội tề
Quần sinh đỉnh Mộc ước thề Thiên Can. .
Tròn sứ mạng đình nang Chấn QUỐC
Chiếu đồ thơ đúng lúc đúng năm
Trăng rằm trăng sắc nhật thiên
Đồ hình chuyển biến vạn niên thiên đài.
…
Đại Từ Ông chuyển kiếp hóa sinh
Thành tâm chuyển biến cung đình
Hoàng thành mạng sứ vô hình chuyển giao."
[Hoàng = Hoàng Nhị Thiên; thành = thành tựu. Hoàng Nhị Thiên thành tựu sứ mạng vô hình chuyển giao]
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Ngộ Trí Lực, ngày 13 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
"Rồi một thể Chấn HÀ HƯNG QUỐC
Rõ đường đi gặp mặt nhị hiền
Nói rằng đã rõ đường đi
Thiên thư trực chiếu tâm thì khởi ra.
…
Lời Ngọc Bạch Toà Chương hiện hữu
Chuyển thể hình đặng việc gần xa
Lập nên cơ pháp đạo nhà
Truyền trao tâm ấn Phật Đà vô vi.”
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Hành Trình Xuyên Càn Khôn, ngày 17 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương.)
“Lời cơ đạo THIÊN HÀ hiệu lực
Ấn chứng Thiên truyền pháp Thiên Sơn
...
Đạo mới huỳnh khai, Thiên Bửu Tòa
Huyền Không ấn định, chiếu HƯNG HÀ
QUỐC khai Thiên Ấn ngôi Huỳnh Đế
Giúp mở tâm lành giúp quốc gia."
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Vận Chuyển Huyền Cơ, ngày 17 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương.)
"Khai Đạo Hoàng Thiên hiện đại đàn
Pháp thiên Vô Cực hiệp Tây An
Đàn long án định niên Thiên Đạo
Cơ pháp Phật-Thiên đạo pháp ban.
[Khoán: Khai đạo Hoàng Thiên hiện đại đàn, pháp đàn cơ pháp, Phật-Thiên đạo pháp ban.]
Hữu đức tầm tri lí diệu huyền
Cơ mầu xuất Đế Đạo Huyền Thiên
Pháp tâm thiên Đại Thừa Chơn Giáo
Thiên xuất luật, thơ Bửu Pháp truyền.
[Khoán: Hữu đức tầm tri lý diệu huyền, cơ pháp Thiên xuất luật, thơ Bửu Pháp truyền.]
Trần miền Nam Việt hiện Tòa Liên
Văn võ thiên căn đạo pháp truyền
Tân luật Nam Thiên Đại Quốc Đạo
Khai đàn Thiên Đạo hiệu Huyền Thiên.
[Khoán: Trần Văn Tân khai đàn Thiên Đạo hiệu Huyền Thiên.]
Huyền Thiên Vô Cực Đại Từ Tôn
HƯNG đạo An Nam thuyết giáo ngôn
QUỐC đức trường thiên mầu võ trụ
HÀ vân phong hội hiệp Thiên Môn.
[Khoán: Hà Quốc Hưng Huyền Thiên Vô Cực Đại Từ Tôn]
Thiên môn Huỳnh Đế xuất An Nam
Ngự bút võ văn Tòa Giáo Tam
Khai án đàn cơ niêm luật đạo
Diêu Trì Kim Mẫu ấn Thiên Nam.
[Khoán: Thiên Môn Huỳnh Đế xuất An Nam, ngự bút võ văn, khai án đàn cơ, Diêu Trì Kim Mẫu ấn Thiên Nam.]
Thiên Nam cửu ấn Bạch Vân âm
Chủ bút tùy căn cơ pháp tâm
Chánh kiến đại kỳ liên chánh đạo
Điển Thầy, điển Mẫu, điển Quan Âm.
[Khoán: Thiên Nam cửu ấn Bạch Vân Am (Trạng Trình), chủ bút tùy căn, chánh kiến đại kỳ. Điển Thầy, điển Mẫu, điển Quan Âm.]
(Đàn St.Louis, thiên thơ Khai Pháp Đàn Cơ, ngày 16 tháng 6AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Huỳnh Đạo)
“Bửu song thanh tịnh kiến Tiên bang
Sơn xuất Huỳnh danh hiển lộ phang
[Huỳnh danh = danh đạo Huỳnh hiển lộ. Đạo Huỳnh đây là Huỳnh Đạo Thiên Khai Kỳ Ba Vô Vi]
Kỳ thuyết qui ngươn cùng hiệp nhứt
Hương trung QUỐC thể dựng Trường An.
[thể = thân]
Bạch Ngọc qui khối hiệp một bầu
[Bạch Ngọc = Bạch Ngọc Kinh = Ngọc Đế]
Sĩ minh giáo chúng nhữ Nam lầu
Tiên khai Đạo cả vầy Long Hội
Sanh thế phương Nam đắc lộ cầu.
Nam bang, nhất sĩ hiệp anh hùng
QUỐC độ Huỳnh tông đắc Cửu Trùng
[độ Huỳnh tông = độ cho tông phái Huỳnh Đạo.]
Công lý tiêu, HÀ qui nhất thống
[nguyên văn là "công lý Tiêu Hà" nhưng thiên cơ thì phải hiểu theo nghĩ được che dấu]
Khanh thông, đạo cả hợp trùng HƯNG.”
“Tổ Phụ [là] hiền nhân đã bao đời
[hai chữ Tổ Phụ là để chỉ người khai sinh một đất nước]
QUÔC gia gầy dựng sáng rạng ngời
[Gia phải hiểu theo nghĩa như gia gia, hay lão gia. "Quốc gia" là "lão gia tên Quốc"]
Việt hiệu lưu truyền giống Hồng Lạc
Nam Thành bờ cõi một góc trời.[thông thường Nam Thành là Sài Gòn nhưng ở đây "Nam Thành bờ cõi" là chỉ một đất nước]
Lưu lại nhân gian hậu thế, thời
Truyền kỳ dũng cảm anh hùng khởi
Tuế minh vạn cửu đáo trùng lai
Hoa Thiên can Chấn Càn cung Khảm
Ngũ Đại Lôi phát tướng, địa bình.
Phù định chiếu thư Minh Chúa viết
Trào đình xuất hiện Đấng Toàn Năng
Cho thấy biết quân cơ định thần
Trong lòng có được đạo Thiên Ân
Di Tôn Đại Việt Hoàng Nhị Thánh [Hoàng Nhị Thánh = Hoàng Nhị Thiên]
Tam Thánh Vô Vi Phật Lão Tôn.
…
Quân chi bảo định Minh chi đại
Hiệp Cửu Trùng sắc tướng tịnh không
Nguyệt cung đại hiệp tam quan
Tầng không vũ trụ cung Càn chiếu ra
Sáng trong bạch thủy ta bà
Thông Thiên Giáo Chủ Sơn Hà nước Nam.
...
Tây Nguyên rộng lớn trào tam
Niết bàn ba cõi chuẩn làm theo cơ”
THẬP TỰ CÔNG di chí đạo khai
[Thập Tự Công = Ông Thập Tự = Thầy Nhân Thập = Ngôi Hai]
Ra đời pháp tầng âm khai bổ
Lộ bóng HUYỀN [THIÊN] căn lập QUỐC kỳ
Pháp vô điển vô vi vô pháp
Ngũ Hoa Liên kho ngọc vận thi kỳ
Châu viên tích trữ cơ thấu lục
Cõi giống Lạc Long cửa Lạc Hồng
Mang trí tuệ căn kiếp Tiên lần trùng khí giả
Đỉnh đạo đời định vị bởi kỳ tam
Thiên THIÊN QUỐC, Đạo soi đường hướng
Chí cả nay mai tỏ Bóng Tùng
Tích thiện tích lai thới qui đề giả
Lịnh Nương sắp cuộc bày QUỐC Đạo nền khai
…
Cuộc đạo chu kỳ chánh pháp nguồn
Thiên THIÊN QUỐC đề môn khai thiện chí
Lực hùng thiên sáng tuệ căn soi
Lòng từ tái độ thiện duyên kỳ
…
Tạo cơ địa núi sông sông núi
Giác hạc Tây đôi nét công đồng
Đạo đạo tuồng tướng toại di Đông
Thần thức chiếu Tây xuống trần hồng
Lập trọn Đạo tạo vô hình cơ bổn
Đạo Thiên Thiên Đạo đồ tái độ hiện
Giả cảnh không không cảnh tâm bia
Chốn kỳ ba cương kỷ lập quyền
Đời bủa pháp tích tu đời độ.”
(Pháp Âm # 160, ngày 3 tháng 5 Mậu Tuất, đàn tràng Nam Thành, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền )
"Khai cơ mầu ngược nước ra khơi
Yên thiện chấp cung thủ đàn khai lộ
Bậc quang minh ánh sáng cao siêu
Nay bông trổ ráng kỳ bám chủ
Gọi QUỐC hồn phận lực kỳ tam
THIÊN tự MINH về chào càn khôn bể
[Minh Thiên = Thiên Minh = Huyền Thiên]
(Pháp Âm #161, ngày 3 tháng 5 Mậu Tuất, đàn tràng Nam Thành, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền)
“Đông du THIÊN HUYỀN QUỐC Nam Hàn
Ngẩm chuyện xưa buộc đoán cao ngôi
Kỳ long mạng lập trường khúc vịnh
Bát Nam Thiên nghịch cảnh bầm cơ
Giải liên ngân quang ngự tam đồ
Xe pháo chốt tiên ban truyền ấn
Linh Hoa Yên long phù trổ thời
Lố dạng tâm đồ QUỐC điền viết tiên NGÔ
Xá xá anh kiệt lòng Phật Thánh
Chiêu dậy công đồ chốn cao ngôi”
(Pháp Âm #164, ngày 3 tháng 5 Mậu Tuất, đàn tràng Nam Thành, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền)
“Phụng gáy tái bản HUYỀN THIÊN Thiên
[Phụng gáy năm Gà Huyền Thiên trở lại]
Thăng trầm hành giả thả đất mầu
Thượng đỉnh lịnh HUYỀN [THIÊN] chờ lai chung độ
Ngọc Bạch Quần Tiên chuyển giới công”
(Pháp Âm 165, ngày 3 tháng 5 Mậu Tuất, đàn tràng Nam Thành, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền)
“Năm con gà PHẬT HOÀNG luân chuyển
Đất Láng Linh cổ điển Ông Hai
Chiều nay định số an bày
Cho ai biết được PHẬT NGÀI giáng lâm
Thân phàm XUẤT THẾ ĐẦU NĂM”
(Pháp Âm 107, 23 tháng 10 Đinh Dậu, ngày 3 tháng 5 Mậu Tuất, đàn tràng Nam Thành, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền)
“THIÊN ĐẠO THÁNH NGỌC HOÀNG đại lực
CHÚA MINH TÔN HUYỀN lệnh THIÊN Đài
[Minh Tôn Huyền Thiên = Huyền Thiên Thượng Đế]
Đài đền Tam Thánh ngôi cao
Vân long tám điểm hồng châu đỉnh đầu.
Hiệp tứ tượng thượng nguyên bình đáy
Hiệp Long Châu Giang điểm Đài Thiên
Bàn tròn vận chuyển khai nguyên
Long Châu Giang điểm HUYỀN THIÊN Ngọc Tòa.
Thầy Sơn Bửu ngọc ngôn phân tánh
Định thứ phân theo tám long châu
Cấp cho Tứ Trụ Đồ Thiên
Long châu long trượng Đạo Thiên hiện hình.”
(Hiệp Trần Tam Thiên, ngày 15 tháng 5 Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Huỳnh Đạo)
Ngay cả những người đấu tranh vì đất nước cũng được Huyền Không mặc khải. Sự mặc khải lặng lẽ mà ngay cả người nhận thông điệp có thể cũng không biết mình được mặc khải mà nghĩ rằng thơ văn sáng tác đến từ cảm hứng của chính mình. Thí dụ như bài Chấn Lạc Hồng của Trần Đông Chấn:
“Nam QUỐC Mộc tinh Chấn Lạc Hồng
[Nam Quốc = nam nhân tên Quốc. Tinh diệu chỉ thiên can. Mộc tinh = thiên can Mộc là năm Giáp, Ất. Câu này có ý nói: nam nhân nước Việt thiên can năm sinh là Giáp, Ất.]
Vận thiên khí hội kiến hỏa nhân
[Nguyên văn viết là "hòa nhân" (do tiếp điển không chính xác hoặc lỗi). Vận "thiên khí hội" thuộc địa chi. Hỏa nhân = người có địa chi Hỏa, là người sinh năm Tỵ, Ngọ. Kết hợp Thiên Can với Địa Chi thì có được tuổi Giáp Ngọ, không có Ất Ngọ cũng không có Giáp Tỵ trong 60 Hoa Giáp. Như vậy, hai câu trên nói: nam nhân nước Việt tên Quốc tuổi Giáp Ngọ.]
Chấn Đạo QUỐC HƯNG bình thiên hạ
[Mộc, Chấn đều chỉ cùng một người. Nói Mộc là nói theo thuật ngữ Ngũ Hành, là Đông Mộc. Nói Chấn là nói theo thuật ngữ Bát Quái, là Đông Chấn. Đông Mộc = Đông Chấn là để ám chỉ Ông Trời Đông Mộc Công chưởng quản ngôi Dương, chồng của Bà Trời Tây Kim Vương Mẫu chưởng quản ngôi Âm (theo tín ngưỡng nhân gian)]
Ngoại quốc lân bang kính phục giao.”
[thuyền liên = liên thuyền đạo = liên tôn giáo]
Vua Nghiêu vua Thuấn đại dìu Càn Khôn.
Chúng đại đệ tử tiền đồn
Vào qua sông Mã quy hồi về đây.”
[sông = hà 河 bộ thủy= đồng âm với hà 何 bộ nhơn = Hà họ. Mã = ngựa = Ngọ 午 chiết tự nhân 人 trên thập 十 dưới. “sông Mã qui hồi về đây” có nghĩa là "Thầy Nhân Thập họ Hà" qui hồi về Nam Bang.]
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Gởi Đạo Đồng Ngoại Quốc, ngày 10 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Cửu Trùng chuyển vận tầng không
Mây hồng tám đóa Mộc kỳ một châu.
Long Hoa Hội đời bách vân
THIÊN Huỳnh HÀ đẳng đứng đầu QUỐC gia
[Huỳnh = Huỳnh Long = Huỳnh Đế. Thiên Huỳnh Hà = Huỳnh Long Hà Thiên]
Lời vàng Thánh Đế triều ca
Quy hồi TAM GIÁO gọi là THIÊN SƠN.
…
Đây môn hạ đồ thơ HÀ Dịch
Viết rõ ràng theo đất Thiên Khai
Lập nên Sơn Đạo Huỳnh Kỳ
HÀ HƯNG QUỐC Chấn đại đầu Hà Tiên.”
[cái gì tới chỗ cùng cực gọi là đại. Đầu = đầu trên hoặc đầu dưới. Hà Tiên là chỗ dưới cùng của Việt Nam nên gọi là "đại đầu Hà Tiên. Câu này ứng vào nơi sinh ở Hà Tiên của Ngôi Hai trào tam tên Hà Hưng Quốc]
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Thiên Địa Hợp Thành, ngày 13 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Thiên Đế vừa ban ấn chỉ bài
[Thiên Đế = Thiên Hoàng Thượng Đế]
Long tuyền mạch đất vận thời lai
Giang đầu thiên đảnh thời Chiêu Lạc
[Giang = sông = hà 河 bộ thủy, đồng âm với Hà 何 họ. Đầu = thủ lĩnh = Hùng. Thông Điển năm 801 ghi: 以富為雄 – Dĩ phú vi hùng. Có thể dịch thành “giàu có thì làm thủ lĩnh” (trích dẫn Trương Thái Du). Chữ Hùng 雄 này chính là Hùng trong danh xưng Vua Hùng. Chiêu = Chiêu Vương Minh Tông Thần Công Hoàng Đế, vua Hùng chi thứ 7, Hoàng tử Liêu Lang. Lạc = Lạc Long hoặc là Lạc Việt. Tiết lộ tiền thân Ngôi Hai họ Hà]Điểm đặt Long Châu ứng chủ khai.
Xuống khúc Long Châu thời minh nguyệt
Hạ phàm giang lật ngược HÀ song
[Xuống khúc = xuống trần chỗ = sinh ra chỗ. Long Châu = tỉnh Long Châu Hà xưa kia. Thời minh nguyệt = vào thời gian trăng sáng. Hạ phàm giang = sinh ra bên cạnh con sông. Lật ngược Hà song = song Hà = hai Hà = sông Hà Tiên chạy ngang qua chợ Hà Tiên. Hai câu này ứng chính xác vào nơi chốn và thời gian hạ sinh của Ngôi Hai trào tam Hà Hưng Quốc (sinh đêm 14AL tại chợ thị trấn Hà Tiên cạnh sông Hà Tiên)]
Thiên Môn chiếu lịnh Thiên Tùng khải
[Thiên Tùng là pháp hiệu của Phật Thầy. Khải = nói cho biết]
Đặt định Thiên Hoàng đặt định khai.
[đây là chuyện Thiên Hoàng đã đặt định, nay là lúc khai mở]
Mười hai cửa đạo dựng Tam Ngôi
[12 chi đạo]
Thế giới đồng liêu thượng giới ngồi
Nhất Cửu đồng Huỳnh Kim Khế hội
Lời truyền Thánh Đức vạn thời Tôi.
Khai Kim Khế hợp thời cơ khai
Đặt định Thế Tôn hiệu triệu Ngài
[Ngài = Ngôi Hai trào tam]
Liên đỉnh Hồng-Huỳnh khai khế hội
Lịnh trình chiếu định ấn Như Lai.
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Thiên Long Giang Điểm, ngày 29 tháng 4AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Vô vi trực chỉ một lời tối cao
Lời thượng đẳng Huỳnh Quang Thượng Tổ
Gởi thăm HÀ HƯNG QUỐC lương sơn
Cảnh đời chuyển thể tỏ tường
…
Lời đắc pháp Tòa Đình hiện đến
Chuyển càn khôn mười tám nước về
Vòng tròn châu lục hội tề
Quần sinh đỉnh Mộc ước thề Thiên Can. .
Tròn sứ mạng đình nang Chấn QUỐC
Chiếu đồ thơ đúng lúc đúng năm
Trăng rằm trăng sắc nhật thiên
Đồ hình chuyển biến vạn niên thiên đài.
…
Đại Từ Ông chuyển kiếp hóa sinh
Thành tâm chuyển biến cung đình
Hoàng thành mạng sứ vô hình chuyển giao."
[Hoàng = Hoàng Nhị Thiên; thành = thành tựu. Hoàng Nhị Thiên thành tựu sứ mạng vô hình chuyển giao]
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Ngộ Trí Lực, ngày 13 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
"Rồi một thể Chấn HÀ HƯNG QUỐC
Rõ đường đi gặp mặt nhị hiền
Nói rằng đã rõ đường đi
Thiên thư trực chiếu tâm thì khởi ra.
…
Lời Ngọc Bạch Toà Chương hiện hữu
Chuyển thể hình đặng việc gần xa
Lập nên cơ pháp đạo nhà
Truyền trao tâm ấn Phật Đà vô vi.”
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Hành Trình Xuyên Càn Khôn, ngày 17 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương.)
“Lời cơ đạo THIÊN HÀ hiệu lực
Ấn chứng Thiên truyền pháp Thiên Sơn
...
Đạo mới huỳnh khai, Thiên Bửu Tòa
Huyền Không ấn định, chiếu HƯNG HÀ
QUỐC khai Thiên Ấn ngôi Huỳnh Đế
Giúp mở tâm lành giúp quốc gia."
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Vận Chuyển Huyền Cơ, ngày 17 tháng 1AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương.)
"Khai Đạo Hoàng Thiên hiện đại đàn
Pháp thiên Vô Cực hiệp Tây An
Đàn long án định niên Thiên Đạo
Cơ pháp Phật-Thiên đạo pháp ban.
[Khoán: Khai đạo Hoàng Thiên hiện đại đàn, pháp đàn cơ pháp, Phật-Thiên đạo pháp ban.]
Hữu đức tầm tri lí diệu huyền
Cơ mầu xuất Đế Đạo Huyền Thiên
Pháp tâm thiên Đại Thừa Chơn Giáo
Thiên xuất luật, thơ Bửu Pháp truyền.
[Khoán: Hữu đức tầm tri lý diệu huyền, cơ pháp Thiên xuất luật, thơ Bửu Pháp truyền.]
Trần miền Nam Việt hiện Tòa Liên
Văn võ thiên căn đạo pháp truyền
Tân luật Nam Thiên Đại Quốc Đạo
Khai đàn Thiên Đạo hiệu Huyền Thiên.
[Khoán: Trần Văn Tân khai đàn Thiên Đạo hiệu Huyền Thiên.]
Huyền Thiên Vô Cực Đại Từ Tôn
HƯNG đạo An Nam thuyết giáo ngôn
QUỐC đức trường thiên mầu võ trụ
HÀ vân phong hội hiệp Thiên Môn.
[Khoán: Hà Quốc Hưng Huyền Thiên Vô Cực Đại Từ Tôn]
Thiên môn Huỳnh Đế xuất An Nam
Ngự bút võ văn Tòa Giáo Tam
Khai án đàn cơ niêm luật đạo
Diêu Trì Kim Mẫu ấn Thiên Nam.
[Khoán: Thiên Môn Huỳnh Đế xuất An Nam, ngự bút võ văn, khai án đàn cơ, Diêu Trì Kim Mẫu ấn Thiên Nam.]
Thiên Nam cửu ấn Bạch Vân âm
Chủ bút tùy căn cơ pháp tâm
Chánh kiến đại kỳ liên chánh đạo
Điển Thầy, điển Mẫu, điển Quan Âm.
[Khoán: Thiên Nam cửu ấn Bạch Vân Am (Trạng Trình), chủ bút tùy căn, chánh kiến đại kỳ. Điển Thầy, điển Mẫu, điển Quan Âm.]
(Đàn St.Louis, thiên thơ Khai Pháp Đàn Cơ, ngày 16 tháng 6AL Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Huỳnh Đạo)
“Bửu song thanh tịnh kiến Tiên bang
Sơn xuất Huỳnh danh hiển lộ phang
[Huỳnh danh = danh đạo Huỳnh hiển lộ. Đạo Huỳnh đây là Huỳnh Đạo Thiên Khai Kỳ Ba Vô Vi]
Kỳ thuyết qui ngươn cùng hiệp nhứt
Hương trung QUỐC thể dựng Trường An.
[thể = thân]
Bạch Ngọc qui khối hiệp một bầu
[Bạch Ngọc = Bạch Ngọc Kinh = Ngọc Đế]
Sĩ minh giáo chúng nhữ Nam lầu
Tiên khai Đạo cả vầy Long Hội
Sanh thế phương Nam đắc lộ cầu.
Nam bang, nhất sĩ hiệp anh hùng
QUỐC độ Huỳnh tông đắc Cửu Trùng
[độ Huỳnh tông = độ cho tông phái Huỳnh Đạo.]
Công lý tiêu, HÀ qui nhất thống
[nguyên văn là "công lý Tiêu Hà" nhưng thiên cơ thì phải hiểu theo nghĩ được che dấu]
Khanh thông, đạo cả hợp trùng HƯNG.”
(Lịch
Sử Long Hoa Đại Đạo. Điển sấm ký của Phật Thầy Tây An, ngày 15 tháng 7
năm Bính Thìn 1976, bản chính của TS Lê Trung Trực, bản sao của Viễn
Lưu)
“Tổ Phụ [là] hiền nhân đã bao đời
[hai chữ Tổ Phụ là để chỉ người khai sinh một đất nước]
QUÔC gia gầy dựng sáng rạng ngời
[Gia phải hiểu theo nghĩa như gia gia, hay lão gia. "Quốc gia" là "lão gia tên Quốc"]
Việt hiệu lưu truyền giống Hồng Lạc
Nam Thành bờ cõi một góc trời.[thông thường Nam Thành là Sài Gòn nhưng ở đây "Nam Thành bờ cõi" là chỉ một đất nước]
Lưu lại nhân gian hậu thế, thời
Truyền kỳ dũng cảm anh hùng khởi
["thời truyền kỳ" = huyền thoại. "Anh hùng" ở đây không hiểu theo nghĩa võ dõng gan dạ]
Hậu vận giang san Nam Đế QUỐC
["Nam
Đế Quốc" không thể là "Đế Quốc phương Nam" được. Nam bang Phật Quốc lại
càng không thể là một đế quốc. Hơn nữa hai chữ "một góc trời" cũng
không phải là "trùm trời" để chỉ một đế quốc. Do đó, "Nam Đế Quốc" là
"Nam Đế tên Quốc" thì hợp lý hơn. Đế ở đây cũng không phải là Vua mà là
Đế Chúa = Ngọc Đế.]
Thế lai vĩnh cửu lắm tuyệt vời.”
(Tiên tri năm 1999, điển Phật Thầy, treo trên tường trong phòng khách nhà anh chị Thiên Bửu - Thiên Chơn, California)
“Đại chúng chư thần chầu Ngọc Quế Tuế minh vạn cửu đáo trùng lai
Hoa Thiên can Chấn Càn cung Khảm
Ngũ Đại Lôi phát tướng, địa bình.
Phù định chiếu thư Minh Chúa viết
Trào đình xuất hiện Đấng Toàn Năng
Cho thấy biết quân cơ định thần
Trong lòng có được đạo Thiên Ân
Di Tôn Đại Việt Hoàng Nhị Thánh [Hoàng Nhị Thánh = Hoàng Nhị Thiên]
Tam Thánh Vô Vi Phật Lão Tôn.
…
Quân chi bảo định Minh chi đại
Hiệp Cửu Trùng sắc tướng tịnh không
Nguyệt cung đại hiệp tam quan
Tầng không vũ trụ cung Càn chiếu ra
Sáng trong bạch thủy ta bà
Thông Thiên Giáo Chủ Sơn Hà nước Nam.
...
Tây Nguyên rộng lớn trào tam
Niết bàn ba cõi chuẩn làm theo cơ”
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Huyền Cơ Diệu Pháp, ngày 6 tháng 12AL năm Bình Thân 2016, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Cửu Trùng Thiên bủa quân ân chuyển THẬP TỰ CÔNG di chí đạo khai
[Thập Tự Công = Ông Thập Tự = Thầy Nhân Thập = Ngôi Hai]
Ra đời pháp tầng âm khai bổ
Lộ bóng HUYỀN [THIÊN] căn lập QUỐC kỳ
Pháp vô điển vô vi vô pháp
Ngũ Hoa Liên kho ngọc vận thi kỳ
Châu viên tích trữ cơ thấu lục
Cõi giống Lạc Long cửa Lạc Hồng
Mang trí tuệ căn kiếp Tiên lần trùng khí giả
Đỉnh đạo đời định vị bởi kỳ tam
Thiên THIÊN QUỐC, Đạo soi đường hướng
Chí cả nay mai tỏ Bóng Tùng
Tích thiện tích lai thới qui đề giả
Lịnh Nương sắp cuộc bày QUỐC Đạo nền khai
…
Cuộc đạo chu kỳ chánh pháp nguồn
Thiên THIÊN QUỐC đề môn khai thiện chí
Lực hùng thiên sáng tuệ căn soi
Lòng từ tái độ thiện duyên kỳ
…
Tạo cơ địa núi sông sông núi
Giác hạc Tây đôi nét công đồng
Đạo đạo tuồng tướng toại di Đông
Thần thức chiếu Tây xuống trần hồng
Lập trọn Đạo tạo vô hình cơ bổn
Đạo Thiên Thiên Đạo đồ tái độ hiện
Giả cảnh không không cảnh tâm bia
Chốn kỳ ba cương kỷ lập quyền
Đời bủa pháp tích tu đời độ.”
(Pháp Âm # 160, ngày 3 tháng 5 Mậu Tuất, đàn tràng Nam Thành, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền )
"Khai cơ mầu ngược nước ra khơi
Yên thiện chấp cung thủ đàn khai lộ
Bậc quang minh ánh sáng cao siêu
Nay bông trổ ráng kỳ bám chủ
Gọi QUỐC hồn phận lực kỳ tam
THIÊN tự MINH về chào càn khôn bể
[Minh Thiên = Thiên Minh = Huyền Thiên]
(Pháp Âm #161, ngày 3 tháng 5 Mậu Tuất, đàn tràng Nam Thành, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền)
Ngẩm chuyện xưa buộc đoán cao ngôi
Kỳ long mạng lập trường khúc vịnh
Bát Nam Thiên nghịch cảnh bầm cơ
Giải liên ngân quang ngự tam đồ
Xe pháo chốt tiên ban truyền ấn
Linh Hoa Yên long phù trổ thời
Lố dạng tâm đồ QUỐC điền viết tiên NGÔ
Xá xá anh kiệt lòng Phật Thánh
Chiêu dậy công đồ chốn cao ngôi”
(Pháp Âm #164, ngày 3 tháng 5 Mậu Tuất, đàn tràng Nam Thành, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền)
“Phụng gáy tái bản HUYỀN THIÊN Thiên
[Phụng gáy năm Gà Huyền Thiên trở lại]
Thăng trầm hành giả thả đất mầu
Thượng đỉnh lịnh HUYỀN [THIÊN] chờ lai chung độ
Ngọc Bạch Quần Tiên chuyển giới công”
(Pháp Âm 165, ngày 3 tháng 5 Mậu Tuất, đàn tràng Nam Thành, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền)
“Năm con gà PHẬT HOÀNG luân chuyển
Đất Láng Linh cổ điển Ông Hai
Chiều nay định số an bày
Cho ai biết được PHẬT NGÀI giáng lâm
Thân phàm XUẤT THẾ ĐẦU NĂM”
(Pháp Âm 107, 23 tháng 10 Đinh Dậu, ngày 3 tháng 5 Mậu Tuất, đàn tràng Nam Thành, Hiệp Thiên Huyền Nữ Kim Ngọc Thanh Huyền)
“THIÊN ĐẠO THÁNH NGỌC HOÀNG đại lực
CHÚA MINH TÔN HUYỀN lệnh THIÊN Đài
[Minh Tôn Huyền Thiên = Huyền Thiên Thượng Đế]
Đài đền Tam Thánh ngôi cao
Vân long tám điểm hồng châu đỉnh đầu.
Hiệp tứ tượng thượng nguyên bình đáy
Hiệp Long Châu Giang điểm Đài Thiên
Bàn tròn vận chuyển khai nguyên
Long Châu Giang điểm HUYỀN THIÊN Ngọc Tòa.
Thầy Sơn Bửu ngọc ngôn phân tánh
Định thứ phân theo tám long châu
Cấp cho Tứ Trụ Đồ Thiên
Long châu long trượng Đạo Thiên hiện hình.”
(Hiệp Trần Tam Thiên, ngày 15 tháng 5 Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Huỳnh Đạo)
Ngay cả những người đấu tranh vì đất nước cũng được Huyền Không mặc khải. Sự mặc khải lặng lẽ mà ngay cả người nhận thông điệp có thể cũng không biết mình được mặc khải mà nghĩ rằng thơ văn sáng tác đến từ cảm hứng của chính mình. Thí dụ như bài Chấn Lạc Hồng của Trần Đông Chấn:
“Nam QUỐC Mộc tinh Chấn Lạc Hồng
[Nam Quốc = nam nhân tên Quốc. Tinh diệu chỉ thiên can. Mộc tinh = thiên can Mộc là năm Giáp, Ất. Câu này có ý nói: nam nhân nước Việt thiên can năm sinh là Giáp, Ất.]
Vận thiên khí hội kiến hỏa nhân
[Nguyên văn viết là "hòa nhân" (do tiếp điển không chính xác hoặc lỗi). Vận "thiên khí hội" thuộc địa chi. Hỏa nhân = người có địa chi Hỏa, là người sinh năm Tỵ, Ngọ. Kết hợp Thiên Can với Địa Chi thì có được tuổi Giáp Ngọ, không có Ất Ngọ cũng không có Giáp Tỵ trong 60 Hoa Giáp. Như vậy, hai câu trên nói: nam nhân nước Việt tên Quốc tuổi Giáp Ngọ.]
Chấn Đạo QUỐC HƯNG bình thiên hạ
[Mộc, Chấn đều chỉ cùng một người. Nói Mộc là nói theo thuật ngữ Ngũ Hành, là Đông Mộc. Nói Chấn là nói theo thuật ngữ Bát Quái, là Đông Chấn. Đông Mộc = Đông Chấn là để ám chỉ Ông Trời Đông Mộc Công chưởng quản ngôi Dương, chồng của Bà Trời Tây Kim Vương Mẫu chưởng quản ngôi Âm (theo tín ngưỡng nhân gian)]
Ngoại quốc lân bang kính phục giao.”
(Chấn Lạc Hồng, Bính Tuất 2006, của Trần Huỳnh Duy Thức.)
Tổng hợp những thiên thơ, sấm giảng, tiên tri mà Thiên Thượng đã tiết lộ rải rác đó đây cho
các cá nhân hoặc các tôn giáo trong gần 100 năm qua người đọc chắc chắn
đã có được trong tay không ít thông tin về vị Sư Ông Cao Đại Hoàng Nhị
Thiên.
7. Hai chữ "Cao Đài" hoặc bốn chữ "Cao Đài Đại Đạo" mà Thầy sử dụng trong một phạm trù rộng lớn hơn sẽ không cùng nghĩa với hai chữ Cao Đài hoặc với bốn chữ Cao Đài Đại Đạo là một tôn giáo do Thầy lập từ năm Bính Dần 1926. Tương tự, bốn chữ "Huỳnh Đạo Thiên Khai" mà Thầy nói tới ở đây không có ý nói tới tôn giáo Thiên Khai Huỳnh Đạo khai mở từ năm 1962. Điều này đã được Thầy xác lập lại nhiều lần.
8. Chuyện "Thống nhất Triệt Giáo hoàn cầu" có lẽ không phải là nỗ lực hữu hình mà bất cứ một tôn giáo hiện hữu nào có thể làm được. Trước tiên nó phải là nỗ lực của "toàn lực lượng vô vi" trong "tam thiên" theo lệnh của Bạch Ngọc Kinh, Lôi Âm Đại Na Di, Diêu Cung và Hội Đồng Tam Giáo Tòa trên cõi Huyền Không. Rồi các Thiên Nhân trên khắp thế giới thực hiện phần hữu hình theo đà chuyển dịch tự nhiên của Thiên Đạo để hoàn tất phần còn lại của CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC. Lý do cho nỗ lực "thống nhứt Triệt giáo toàn cầu" và "đổi quả kiền khôn tái lập đời" được nói rõ:
"Loài người nay cũng đã đến hồi
Giác ngộ Tâm Kinh tiến hóa rồi
Bước lên một nấc thang cao trổi
Đổi quả kiền khôn tái lập đời."
Giác ngộ Tâm Kinh tiến hóa rồi
Bước lên một nấc thang cao trổi
Đổi quả kiền khôn tái lập đời."
(Đàn giờ Tý, ngày 17 tháng 6 năm Đinh Sửu 1997, đàn dạy đạo huynh Quyền Pháp)
Các vị Thiên Nhân còn có một tên gọi khác, đó là Thiên Long và Liên
Hoa. Sự qui tập của họ vào một thời điểm đã được ấn định để cùng nhau
thực hiện sứ mạng thiêng liêng đã được giao phó gọi là Long Hoa Hội.
Nói về Long Hoa Hội, trong đàn cơ ngày 15-17 tháng 10 năm Canh Tuất
1970, Đức Chưởng Giáo Ngô Văn Dư của Hội Thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo đã
cho biết:
"Dầu biết cảnh trần hồng tạm gởi
Sứ mạng truyền mong đợi Long Hoa
Đường Tiên còn chẳng bao xa...
Được THƯỢNG TỔ sắp bày bí pháp
Dìu nguyên căn qui nạp linh nhân
Long Hoa tuy đã hầu gần
Nhưng thương số kiếp, nợ nần oan khiên ...
VÔ CỰC mĩm cười: "Tâu đúng lẽ!
Nhưng trường thi ai sẽ lo lường?
Long Hoa Hội sắp khai trương Hữu hình con giữ, ai thường vô vi?
...
Thỉnh NHƯ LAI kịp đáo hội bàn
Long Hoa sắp mở khoa tràng
Lành thay! chiếu sắc THƯỢNG HOÀNG gia phong! ...
Chờ đến buổi Long Hoa ứng thí
Cho Đạo Vàng vững chí ra công!
...Trước đền, hiện chiếu TAM TÒA
Chấp phê nguyên tắc Long Hoa luận bàn."
(Thất Nhựt Du Tiên, Chưởng Giáo Ngô Văn Dư giáng đàn, đàn cơ ngày 15-17 tháng 10 Canh Tuất, Hội Thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo)"Dầu biết cảnh trần hồng tạm gởi
Sứ mạng truyền mong đợi Long Hoa
Đường Tiên còn chẳng bao xa...
Được THƯỢNG TỔ sắp bày bí pháp
Dìu nguyên căn qui nạp linh nhân
Long Hoa tuy đã hầu gần
Nhưng thương số kiếp, nợ nần oan khiên ...
VÔ CỰC mĩm cười: "Tâu đúng lẽ!
Nhưng trường thi ai sẽ lo lường?
Long Hoa Hội sắp khai trương Hữu hình con giữ, ai thường vô vi?
...
Thỉnh NHƯ LAI kịp đáo hội bàn
Long Hoa sắp mở khoa tràng
Lành thay! chiếu sắc THƯỢNG HOÀNG gia phong! ...
Chờ đến buổi Long Hoa ứng thí
Cho Đạo Vàng vững chí ra công!
...Trước đền, hiện chiếu TAM TÒA
Chấp phê nguyên tắc Long Hoa luận bàn."
Thời điểm 1970 thì Long Hoa Đại Hội chỉ là "mong đợi", "gần", "sắp", "chờ", "luận bàn nguyên tắc" nhưng vẫn chưa tới. Và trong một đàn cơ năm 1997, Thầy lại cho biết:
"Long Hoa Đại Hội sắp kề chân
Bớ chúng sanh mau tỉnh mộng trần
Nhanh chân tách bến qua bờ giác
Để kịp khoa tràng kẻo trễ chân.
Bớ chúng sanh mau tỉnh mộng trần
Nhanh chân tách bến qua bờ giác
Để kịp khoa tràng kẻo trễ chân.
Chân Truyền Đại Đạo kể từ đây
Phổ hóa năm châu cứu nạn này
Cơ cuộc diễn bày ra trước mắt
Không ai thoát khỏi trận cuồng xoay.
Phổ hóa năm châu cứu nạn này
Cơ cuộc diễn bày ra trước mắt
Không ai thoát khỏi trận cuồng xoay.
Xoay chuyển Càn Khôn tái lập đời
Quyền Pháp Kỳ Ba tỏa nơi nơi
Cao Đài danh hiệu vang ba cõi
Thiết lập Đời Tân gốc Đạo Trời.
Quyền Pháp Kỳ Ba tỏa nơi nơi
Cao Đài danh hiệu vang ba cõi
Thiết lập Đời Tân gốc Đạo Trời.
(Đàn cơ ngày 15 tháng 5 năm Đinh Sửu 1997, đàn dạy đạo huynh Quyền Pháp)
Cụm chữ "kể từ đây" có nghĩa là kể từ Long Hoa Hội khai màn, không phải từ năm 1997. Theo tinh thần của đoạn thiên thơ trên thì ở vào thời điểm 1997 Long Hoa Hội cũng chỉ là "sắp kề chân" thôi chứ chưa diễn ra. Và, một khi Long Hoa Hội khai diễn thì đó cũng là ngày chính thức "Chân Truyền Đại Đạo" và "Phổ Hóa Năm Châu". Điều này cũng có nghĩa Long Hoa Hội không phải chỉ là để Phán Xét như nhiều người nghĩ lầm, mà là một nỗ lực Cứu Thế của Cha Trời trước và vào đúng lúc những thay đổi lớn lao diễn ra trên mặt địa cầu, những thay đổi có khả năng "tái lập đời".
Vậy thì, chính xác là chừng nào các vị Thiên Long và Liên Hoa mới xuất hiện? Chừng nào các Sư Ông xuất hiện? Chừng nào vị Sư Ông Cao Đại Hoàng Nhị Thiên xuất hiện? Trong đàn cơ năm 1960 nói về Chương Trình Long Hoa Đại Hội (văn bản thuộc loại "mật") của Thiên Khai Huỳnh Đạo, Đức Di Lạc Phật Vương cho biết:
Cụm chữ "kể từ đây" có nghĩa là kể từ Long Hoa Hội khai màn, không phải từ năm 1997. Theo tinh thần của đoạn thiên thơ trên thì ở vào thời điểm 1997 Long Hoa Hội cũng chỉ là "sắp kề chân" thôi chứ chưa diễn ra. Và, một khi Long Hoa Hội khai diễn thì đó cũng là ngày chính thức "Chân Truyền Đại Đạo" và "Phổ Hóa Năm Châu". Điều này cũng có nghĩa Long Hoa Hội không phải chỉ là để Phán Xét như nhiều người nghĩ lầm, mà là một nỗ lực Cứu Thế của Cha Trời trước và vào đúng lúc những thay đổi lớn lao diễn ra trên mặt địa cầu, những thay đổi có khả năng "tái lập đời".
Vậy thì, chính xác là chừng nào các vị Thiên Long và Liên Hoa mới xuất hiện? Chừng nào các Sư Ông xuất hiện? Chừng nào vị Sư Ông Cao Đại Hoàng Nhị Thiên xuất hiện? Trong đàn cơ năm 1960 nói về Chương Trình Long Hoa Đại Hội (văn bản thuộc loại "mật") của Thiên Khai Huỳnh Đạo, Đức Di Lạc Phật Vương cho biết:
"Chừng khi gặp được gà sắc đỏ
[Gà sắc đỏ = Đinh Dậu 2017]
[Gà sắc đỏ = Đinh Dậu 2017]
Ắt rạng điềm tỏ rõ Ngũ Châu
Nhà Nam bá chủ gồm thâu
Minh Hoàng xuất hiện đâu đâu phục tùng"
(Ngũ Phụng Kỳ Sơn, trang 38, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1960)
Mẹ Diêu Trì cũng cho biết:
"Một nam tử giử gìn vẫn chánh
Một quần thoa bảo lãnh toàn chơn
"Một nam tử giử gìn vẫn chánh
Một quần thoa bảo lãnh toàn chơn
Một tay dập tắt căm hờn
Một giây, một phiếm, một đờn Bá Nha...
Một con Lạc dầy công tu luyện
Một cháu Hồng nhận điển Huyền Thiên
Một lời Mẹ đoán tam niên
Mùi Thân Dậu: Có, con hiền chờ xem"
(Ngọc Kinh 3, trang 48-49, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967)
Và Văn Xương Đế Quân cũng cho biết:
Và Văn Xương Đế Quân cũng cho biết:
"Chỉ còn có hai năm Thân Dậu
Xiết là bao nung nấu lòng người
Não nề đường lối như như
Không không là những tiếng cười thâm uyên.
Ai nhận được ba Tiên một Phật
Là tròn câu tiêm tất dặn dò
Khỉ rừng chót chét bo bo
[Bính Thân 2016 chỉ mới hé chút chút]
[Bính Thân 2016 chỉ mới hé chút chút]
Gà nhà tiếng gáy ó o vui mừng.
[Đinh Dậu 2017 mới chính thức xuất lộ]
[Đinh Dậu 2017 mới chính thức xuất lộ]
...
Thấy đủ đầy sự thiệt vô cương
Huỳnh Long trổ hiện phi thường
Phật ra mặt Phật, Minh Vương cứu đời.
Dập tắt hết muôn nơi nước lửa
Phá tan mầm kiến lủ đàn ong
Việt Nam đất nước thành công
Lạc Hồng nòi giống gương trông thế thời"
(Ngọc Kinh 3, trang 68-69, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967)
"Nơi Hậu Giang Ngọc Đế định rồi
Long Môn sấm ký để lời
Chơn truyền Huỳnh Đạo nhất thời hoằng khai
[nhất thời hoằng khai = tạm thời hoằng khai cho một giai đoạn ngắn. Huỳnh Đạo mà tiền thân là Hội Thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo khai mở năm1962 chỉ là cho một giai đoạn ngắn, chưa phải là Huỳnh Đạo Thiên Khai kỳ ba vô vi.]
[nhất thời hoằng khai = tạm thời hoằng khai cho một giai đoạn ngắn. Huỳnh Đạo mà tiền thân là Hội Thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo khai mở năm1962 chỉ là cho một giai đoạn ngắn, chưa phải là Huỳnh Đạo Thiên Khai kỳ ba vô vi.]
Tiên tri trước hậu lai sẽ rõ...
Thân Dậu niên an bày thế cuộc
Hội Long Hoa ngọn đuốc Đạo Huỳnh
[Tiên tri trước để hậu lai rõ là tới năm Thân Dậu trong tương lai thì mới an bày thế cuộc của Đạo Huỳnh. Đạo Huỳnh hoằng khai tại thời điểm Long Hoa Hội khai diễn là Huỳnh Đạo Thiên Khai Kỳ Ba Vô Vi (đã khai cơ vào năm Bính Thân hoằng khai ngày mồng 2 tháng 8 năm Đinh Dậu 2017 đúng với tiên tri) chứ không phải Thiên Khai Huỳnh Đạo mở năm 1962 cho một giai đoạn tạm thời.]
[Tiên tri trước để hậu lai rõ là tới năm Thân Dậu trong tương lai thì mới an bày thế cuộc của Đạo Huỳnh. Đạo Huỳnh hoằng khai tại thời điểm Long Hoa Hội khai diễn là Huỳnh Đạo Thiên Khai Kỳ Ba Vô Vi (đã khai cơ vào năm Bính Thân hoằng khai ngày mồng 2 tháng 8 năm Đinh Dậu 2017 đúng với tiên tri) chứ không phải Thiên Khai Huỳnh Đạo mở năm 1962 cho một giai đoạn tạm thời.]
Tàn Đông xuất hiện Tổ Đình"
(Sấm Giảng Hậu Giang, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 25-6-1965)
[Gà = năm Dậu; xa lộ = đường xa; xuyên Đông = xuyên qua Biển Đông. Câu này nói năm Dậu bay đường xa xuyên qua biển Đông]
Hà Giang Thánh xuất tấn phong tôi hiền
[Hà Giang = tỉnh Hà Tiên xưa. Hà Giang là tên gọi Hà Tiên xưa trong thiên thơ Cao Đài, xem Đại Đạo Luận Tr.41. Thánh xuất = Ngôi Hai trào tam đi ra ngoại quốc. Tấn phong tôi hiền = khai đạo tại hải ngoại, sắc phong cho giáo đồ.]
Mười tám nước minh liên định liệu
Phật Vương truyền sắc đổi Thượng Ngươn"
(Sấm Giảng Tiền Giang, Thiên Khai Huỳnh Đạo, 1967)
Tân niên Dậu ký Phật đáo lai [tân = mới = năm 2017 = Đinh Dậu]
Long chuyển ngũ châu rạng Phật đài
Càn khôn hội hiệp quy tam cõi
Thánh Đức Tân Dân Cửu Trùng khai
(Bửu Linh Tự, thiên thơ Phật Đáo Lai, Mùng 1 Tết Đinh Dậu 2017)
"Cuộc vận chuyển nghìn năm có một
Thiên Nhân Địa cảnh hiệp về đây
Khởi đầu thi Hội Long Hoa
Chứng minh Đức Thánh kỳ ba khai trào.
Mỗi linh căn chứng phàm kim thể
Đúng pháp môn hiện hữu nơi đây
Hoa ấn chung hòa cùng đại vị
Khải Ngài Di Lạc hiệp Càn Khôn.
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Chứng Thánh Tam Ngươn, ngày 13 tháng 12 Bình Thân 2016, Bửu Sơn Kỳ Hương)
"Thiên Minh nhất giáo hiệp triều đình
[Thiên Minh = Minh Thiên = Huyền Thiên Thượng Đế]
Chấn quẻ Đông bình hiện Nhất Minh
Chấn quẻ Đông bình hiện Nhất Minh
Tôn Khảm hiện diện niên Dậu tuế [niên
Dậu tuế = niên Dậu và tuế Dậu = tháng 8 AL năm Đinh Dậu 2017. Khảm =
Bắc Khảm Thủy = Bắc Phương Chân Vũ Huyền Thiên Thượng Đế. Nhất Minh Tôn
Khảm = Minh Tôn Huyền Thiên]
Hoàn cầu chuyển động hiệp quần sinh.
Long thần thức tướng hiện Càn Khôn
Hoa điểm tương lai chuyển Giáo Tôn
Diễn cảnh tương lai thiên kỳ định
Trận vô vi trận pháp Thiên Tôn..."
(Đàn Tắc Vân, thiên thơ Long Hoa Diễn Trận, ngày 30 tháng 2AL năm Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
"Thiên Ấn Càn Khảm luận việc làm
Trạng Trình kỉnh việc hội trào tam
Tam thiên thế giới lân hòa hiệp
Nhất đẳng Huỳnh quang nhất hội tam.
...
...
Ngài lộ cơ Huyền Thiên Đại Cán
Nhất trào thiên nhất điển Hồng Lai...
Nhất trào thiên nhất điển Hồng Lai...
Nhất cửu đỉnh Hồng Quân Thượng Tổ
Nhất niên lai Đinh Dậu khai bài [Đinh Dậu 2017]
Tứ thân hành ngũ đẳng truyền nhân
Thần Thánh Phật, Tòa Đình hiện thế.
...
...
Đúng Thượng Ngươn kỳ hẹn truyền trao
Lời tỏ tường theo lệnh Thiên Tôn
Luận cho rõ pháp tâm nguyên thể."
(Đàn California, thiên thơ Thanh Bạch Sắc Cơ, ngày 6 tháng 3AL năm Đinh Dậu 2017, Bửu Sơn Kỳ Hương)
“Hiện thân Di Lặc Thiên OaiCứu nguy tận thế thoát tai nạn tàn...
Thế cho nên Phật truyền chuyển thế
Là chuyển tâm tu khắp hoàn cầu
Việt Nam là nước bắt đầu
Cơ Huyền khai mở nhiệm mầu tới đây
[Cơ huyền là cơ huyền diệu nhưng đồng thời "Cơ Huyền" còn có nghĩa là cơ của Huyền Thiên Thượng Đế]
Hướng Tây Phương, Tây miền Nam hướng
Sẽ hiển linh duyên ngộ Phật Vương”
(Dòng 532-546, Phật Sử Tiên Rồng, điển thi của Đức Vô Danh Thị, ngày 4 tháng 4 năm Nhâm Ngọ 2002)
Là năm Đinh Dậu, Gà sắc đỏ! Không ai dám chắc có phải là Đinh Dậu 2017. Nhưng căn cứ theo thiên thơ như đã trình bày thì người viết dám khẳng định là năm Đinh Dậu 2017 vì chỉ có thời điểm này thì mới có sự hội tụ đầy đủ các nhân vật lịch sử VN "Quang, Sang, Hải, Trọng" [Trần Đại Quang, Trương Tấn Sang, Lê Thanh Hải, Nguyễn Phú Trọng] và chỉ có "tứ trụ" này mới có khả năng "Ra khơi xây đấp một đàng tinh [quái] khôi [hài]".
Tại thời điểm lịch sử này thì một Ngôi Hai trào tam, một Hoàng Nhị
Thiên, một Sư Ông Cao Đại Nhất, một Thầy Nhân Thập sẽ "đến nơi". Và khi
phối kiểm với hiện thực thì đúng là đã có một Hoàng Nhị Thiên không ngại sứ mạng "thiết lập Đời Tân gốc Đạo Trời" đã lặng lẽ hiện
thân vào đầu năm Đinh Dậu 2017 với những chi tiết hoàn toàn trùng khớp
với những huyền khải từ các tôn giáo khác nhau như đã trình bày qua.
III.
III.
"Cơ Tiến Hóa xoay vần đến buổi
Buổi nhân loài đến tuổi trưởng thành
Đến ngày hiểu được ngọn ngành
Mỗi Người tự ngộ Đạo Lành nơi Tâm
Nguơn Thánh Đức Tân Dân tái tạo
Mỗi người đều có Đạo Tự Nhiên
Mỗi người tự biết Căn Tiên
Tánh Trời Tâm Phật Bản Nguyên của mình
Dân Nước Thánh Tâm Minh Trí Sáng
Là Dân Trời bản dạng Thiên Lương
Hiền hòa chất phát yêu thương
Nơi nơi an lạc mười phương thái hòa
Khắp Trần Thế nhà nhà tu luyện
Người người đều hiển hiện Phật Tâm
Vui say mùi Đạo âm thầm
Cùng Trời giao cảm Đạo ngầm quảng khai...
Buổi nhân loài đến tuổi trưởng thành
Đến ngày hiểu được ngọn ngành
Mỗi Người tự ngộ Đạo Lành nơi Tâm
Nguơn Thánh Đức Tân Dân tái tạo
Mỗi người đều có Đạo Tự Nhiên
Mỗi người tự biết Căn Tiên
Tánh Trời Tâm Phật Bản Nguyên của mình
Dân Nước Thánh Tâm Minh Trí Sáng
Là Dân Trời bản dạng Thiên Lương
Hiền hòa chất phát yêu thương
Nơi nơi an lạc mười phương thái hòa
Khắp Trần Thế nhà nhà tu luyện
Người người đều hiển hiện Phật Tâm
Vui say mùi Đạo âm thầm
Cùng Trời giao cảm Đạo ngầm quảng khai...
Nền Đại Đạo Tiên Thiên khai mở
Để mỗi người quay trở vào Tâm
Mỗi Người Tự Ngộ Lý Thâm
Nhờ công tu luyện chí chăm một đời
Chẳng phải nhờ theo thời theo thế
Chẳng phải qua đoàn thể giáo tông
Cơ huyền kiếp sống muốn thông
Thì cần phải có dụng công tu trì
Đại Đạo vốn Vô Vi Vô Tướng
Đại Đạo thì Vô Lượng Vô Bờ
Mỗi người ngộ đắc Thiên Thơ
Tự nơi sâu thẳm Tâm Cơ của mình
Chẳng phải tìm nơi Đình, Chùa, Thất
Phải biết tìm ra Phật nơi lòng
Giờ giờ phút phút nhìn trong
Nhìn vào Tự Tánh sẽ thông Cơ Huyền.
Để mỗi người quay trở vào Tâm
Mỗi Người Tự Ngộ Lý Thâm
Nhờ công tu luyện chí chăm một đời
Chẳng phải nhờ theo thời theo thế
Chẳng phải qua đoàn thể giáo tông
Cơ huyền kiếp sống muốn thông
Thì cần phải có dụng công tu trì
Đại Đạo vốn Vô Vi Vô Tướng
Đại Đạo thì Vô Lượng Vô Bờ
Mỗi người ngộ đắc Thiên Thơ
Tự nơi sâu thẳm Tâm Cơ của mình
Chẳng phải tìm nơi Đình, Chùa, Thất
Phải biết tìm ra Phật nơi lòng
Giờ giờ phút phút nhìn trong
Nhìn vào Tự Tánh sẽ thông Cơ Huyền.
(Ngày 15 tháng 10 năm Kỷ Mão, đàn dạy đạo huynh Quyền Pháp)
Và quan trọng hơn hết, nếu cái "Đạo Thầy" trong tương lai cũng là "từ
Đấng Cao Đài khai Giáo" và cái "Đạo Thầy" đó không phải là "Cao Đài Tam
Kỳ Phổ Độ mở từ năm 1926" thì diện mạo Pháp Chánh Truyền của cái "Đạo Thầy" này ra sao? Trong một đàn cơ năm 1998, Long Nữ Tiên Nương đã giải thích:
"Lý Chân Như cơ mầu ẩn hiện
Đường về Thầy tu luyện làm đầu
Muốn cho thấu lẽ nhiệm mầu
Con đường Chánh Đạo phải cầu nơi Tâm.
Đường Cao Học thâm thâm vi diệu
Đạo vô vi bí yếu khôn lường
Chí tâm tìm hiểu cho tường
Nội quan phản chiếu rõ đường huyền vi.
Nay nhằm buổi Tam Kỳ khai mở
Pháp Chánh Truyền sáng rỡ Tâm Kinh
Móng nền Cơ Đạo Huyền Linh
Tìm ra Chân Lý Đạo Huỳnh nơi Tâm.
Cao Đài Đạo huyền thâm mặc mặc
Muốn gặp Thầy giữ chặt Tâm Kinh
Hư vô chi khí Thượng Đình
Tu đơn luyện kỷ công trình công phu.
Pháp mầu phải tầm tu cho đạt
Phải cho tường Y Bát truyền lưu
Phải thông Diệu Lý Vô Ưu
Phải hành đúng pháp phải tu đúng đường.
Đuốc Chơn Lý đưa đường dẫn nẽo
Đạo Từ Bi phải khéo tô bồi
Công phu công quả đành rồi
Công trình phải đủ vậy thời Tam Công.
Tu Chơn Tánh thâm thông diệu lý
Luyện phép mầu ý chỉ nơi lòng
Luyện trau Tánh, Mạng cho đồng
Có Tâm có Thể mới hòng đắc minh.
Cơ Đại Đạo thinh thinh hiện ẩn
Lý vô vi xen lẫn hữu hình
Có Vô có Hữu quy trình
Trong vô có hữu lấy hình làm không.
Người đạt lý Tâm Trung vô ngại
Đạo Huyền Đồng tự tại như như
Không trên dưới, không thiếu dư
Không cao không thấp Huyền Hư ý này.
Muốn hiểu được Đạo Thầy diệu lý
Muốn tìm ra huyền bí Đạo Cao
Phải thông Chơn Pháp Thầy trao
Phải tường căn cội Đài Cao nơi mình.
Năng đọc tụng Huỳnh Đình vô tự
Thường luyện Thần học chữ Tâm Kinh
Thời thời tưởng Đạo nơi mình
Sát na nắm chặt Huỳnh Đình mà phăng.
Phăng cho thấu Đạo hằng rỡ rỡ
Tìm cho ra Tâm ở nơi nào
Khí Tinh lên xuống ra vào
Âm dương nhị khí hai hào đắc minh.
Minh Chơn Lý Đạo Huỳnh tỏ rõ
Thấy tận tường sáng tỏ Đạo Cao
Vô vi hình tướng sắc màu
Nhiệm thông huyền lý Đạo Cao của Thầy.
Gieo Chơn Pháp Thầy gầy từ thuở
Hiển Đạo mầu sáng rỡ gương soi
Để đời lưu dấu khá noi
Gương tu Thầy để khá coi theo hành.
Hành Chánh Pháp cho thành quả vị
Để làm nền chuẩn bị Đạo khai
Chờ ngày Cứu Thế Cao Đài
Tỉnh mê sanh chúng lập đời Thượng Ngươn."
Đường về Thầy tu luyện làm đầu
Muốn cho thấu lẽ nhiệm mầu
Con đường Chánh Đạo phải cầu nơi Tâm.
Đường Cao Học thâm thâm vi diệu
Đạo vô vi bí yếu khôn lường
Chí tâm tìm hiểu cho tường
Nội quan phản chiếu rõ đường huyền vi.
Nay nhằm buổi Tam Kỳ khai mở
Pháp Chánh Truyền sáng rỡ Tâm Kinh
Móng nền Cơ Đạo Huyền Linh
Tìm ra Chân Lý Đạo Huỳnh nơi Tâm.
Cao Đài Đạo huyền thâm mặc mặc
Muốn gặp Thầy giữ chặt Tâm Kinh
Hư vô chi khí Thượng Đình
Tu đơn luyện kỷ công trình công phu.
Pháp mầu phải tầm tu cho đạt
Phải cho tường Y Bát truyền lưu
Phải thông Diệu Lý Vô Ưu
Phải hành đúng pháp phải tu đúng đường.
Đuốc Chơn Lý đưa đường dẫn nẽo
Đạo Từ Bi phải khéo tô bồi
Công phu công quả đành rồi
Công trình phải đủ vậy thời Tam Công.
Tu Chơn Tánh thâm thông diệu lý
Luyện phép mầu ý chỉ nơi lòng
Luyện trau Tánh, Mạng cho đồng
Có Tâm có Thể mới hòng đắc minh.
Cơ Đại Đạo thinh thinh hiện ẩn
Lý vô vi xen lẫn hữu hình
Có Vô có Hữu quy trình
Trong vô có hữu lấy hình làm không.
Người đạt lý Tâm Trung vô ngại
Đạo Huyền Đồng tự tại như như
Không trên dưới, không thiếu dư
Không cao không thấp Huyền Hư ý này.
Muốn hiểu được Đạo Thầy diệu lý
Muốn tìm ra huyền bí Đạo Cao
Phải thông Chơn Pháp Thầy trao
Phải tường căn cội Đài Cao nơi mình.
Năng đọc tụng Huỳnh Đình vô tự
Thường luyện Thần học chữ Tâm Kinh
Thời thời tưởng Đạo nơi mình
Sát na nắm chặt Huỳnh Đình mà phăng.
Phăng cho thấu Đạo hằng rỡ rỡ
Tìm cho ra Tâm ở nơi nào
Khí Tinh lên xuống ra vào
Âm dương nhị khí hai hào đắc minh.
Minh Chơn Lý Đạo Huỳnh tỏ rõ
Thấy tận tường sáng tỏ Đạo Cao
Vô vi hình tướng sắc màu
Nhiệm thông huyền lý Đạo Cao của Thầy.
Gieo Chơn Pháp Thầy gầy từ thuở
Hiển Đạo mầu sáng rỡ gương soi
Để đời lưu dấu khá noi
Gương tu Thầy để khá coi theo hành.
Hành Chánh Pháp cho thành quả vị
Để làm nền chuẩn bị Đạo khai
Chờ ngày Cứu Thế Cao Đài
Tỉnh mê sanh chúng lập đời Thượng Ngươn."
(Ngày 9 tháng 7 năm Đinh Sửu 1997, đàn dạy h/h Quyền Pháp).
Đó là Pháp Chánh Truyền của Thầy. Còn hai chữ "Vô Vi" có thể gói gọn như sau:
"Vô Vi không luận thấp caoKhông cao mà lại trùm bao đất trờiVô Vi không nói một lờiMột lời không nói mà trời đất theoNhiệm màu cái đạo Vô ViNên Thầy khuyên trẻ hãy đi đến cùng."(Ngày 9 tháng 7 năm Đinh Sửu 1997, đàn dạy h/h Quyền Pháp).
Toàn bộ CHƯƠNG TRÌNH LẬP ĐỜI THÁNH ĐỨC TÂN DÂN CỦA HUYỀN KHÔNG đã được
giải trình. Người viết đã cố gắng giải trình một cách khách quan với
thái độ của một nhà nghiên cứu "sấm giảng và thi văn đạo giáo" chứ không
với tư cách là một tín đồ của bất cứ tôn giáo nào. Người viết chỉ căn
cứ trên chứng liệu "khả tín" vì đã "trải qua thử thách theo thời gian".
Người viết tuyệt nhiên không có ý xúc phạm bất cứ ai hay bất cứ tôn
giáo nào. Và trong sự giải trình nếu có điều chi sơ xuất hay làm phật
lòng một ai, người viết cúi đầu cầu xin sự rộng lượng tha thứ.
Để chốt lại những điều đã giải trình chỉ trong một vài lời ngắn ngủi là
một điều ngoài sức của người viết. Như vậy, còn biết nói lời gì hơn là
được phép lập lại một câu nói đơn giản:"Phúc cho những ai chưa thấy mà tin".
"Cơ cuộc thế Đông Tây Nam Bắc
Sẽ có ngày bế tắt đảo điên
Do vầy Lượng Cả Ơn Thiên
Chuyển đưa Chư Phật Chư Tiên xuống trần.
Để cứu độ Nguyên Nhân kỳ chót
Vượt ái hà giải thoát trần lao
May duyên gặp buổi Đạo Cao
Ơn Trời khai mở Pháp trao cứu nàn.
Bớ sanh chúng lên thoàn lẹ lẹ
Để quày về Đất Mẹ Quê Cha
Nương theo Pháp Đạo Kỳ Ba.(Đàn giờ Tí, 14/7/1997 Đinh Sửu, đàn dạy h/h Quyền Pháp)
Sẽ có ngày bế tắt đảo điên
Do vầy Lượng Cả Ơn Thiên
Chuyển đưa Chư Phật Chư Tiên xuống trần.
Để cứu độ Nguyên Nhân kỳ chót
Vượt ái hà giải thoát trần lao
May duyên gặp buổi Đạo Cao
Ơn Trời khai mở Pháp trao cứu nàn.
Bớ sanh chúng lên thoàn lẹ lẹ
Để quày về Đất Mẹ Quê Cha
Nương theo Pháp Đạo Kỳ Ba.(Đàn giờ Tí, 14/7/1997 Đinh Sửu, đàn dạy h/h Quyền Pháp)
BL ngày 14 tháng 7 năm 2017
LS. THT
No comments:
Post a Comment